top of page
thichchanthuc10201

Kinh Bát Đại Nhân Giác Thích Tâm Thích Viên Giác giảng - Part 1

Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh

Phật nói Kinh Tám điều Giác-Ngộ của Bậc Đại Nhân

Hậu-Hán, An-Tức Quốc, Sa-môn An-Thế Cao dịch.

Đời Hậu-Hán Sa-môn An Thế Cao, nước An-Tức dịch từ chữ Phạn ra Hán-văn

Tỳ-Khưu Thích-Tâm Châu dịch từ Hán-văn ra Việt-văn


***

子 Vi Phật đệ tử Là đệ-tử Phật 夜 Thường ư trú dạ Thường thường ngày đêm 念 Chí tâm tụng niệm Dốc lòng tụng niệm 覺 Bát đại nhân giác Tám điều giác-ngộ của bậc đại nhân

悟 Đệ nhất giác ngộ Thứ nhất giác-ngộ: 常 Thế gian vô thường Thế gian vô thường 脆 Quốc độ nguy thuý Đất nước mong manh 空 Tứ đại khổ không Bốn đại khổ, không 我 Ngũ ấm vô ngã Năm ấm vô ngã 異 Sanh diệt biến dị Sinh diệt biến đổi 主 Hư nguỵ vô chủ Giả dối không chủ 源 Tâm thị ác nguyên Tâm là nguồn ác 藪 Hình vi tội tẩu Hình (thân) là rừng tội 察 Như thị quán sát Quán sát như thế 死 Tiệm ly sanh tử. Dần thoát sinh tử.

知 Đệ nhị giác tri Thứ hai giác-ngộ: 苦 Đa dục vi khổ Muốn nhiều là khổ 勞 Sinh tử bì lao Sống Chết nhọc nhằn 起 Tùng tham dục khởi Từ tham dục khởi 爲 Thiểu dục vô vi Ít muốn vô vi 在 Thân tâm tự tại. Thân tâm tự tại.

知 Đệ tam giác tri Thứ ba giác-ngộ:: 足 Tâm vô yểm túc Tâm không chán đủ 求 Duy đắc đa cầu Chỉ tham cầu nhiều 惡 Tăng trưởng tội ác Tăngthêm tội ác 爾 Bồ tát bất nhĩ Bồ tát không thế 足 Thường niệm tri túc Thường niệm “tri-túc” 道 An bần thủ đạo An bần giữ đạo 業 Duy tuệ thị nghiệp Tuệ là sự-nghiệp.

知 Đệ tứ giác tri Thứ tư giác ngộ: 落 Giải đãi đoạ lạc Biếng lười trụy lạc 進 Thường hành tinh tấn Thường hành tinh tiến 惡 Phá phiền não ác Phá phiền não ác 魔 Tồi phục tứ ma Dẹp phục bốn ma 獄 Xuất ấm giới ngục. Ra ngục ấm, giới.

悟 Đệ ngũ giác ngộ Thứ năm giác-ngộ: 死 Ngu si sinh tử Ngu si sinh tử 念 Bồ tát thường niệm Bồ-tát thường niệm 聞 Quảng học đa văn Học rộng nghe nhiều 慧 Tăng trưởng trí tuệ Tăng thêm trí tuệ 才 Thành tựu biện tài Thành tựu biện tài 切 Giáo hóa nhất thiết Giáo hóa hết thảy 樂 Tất dĩ đại lạc. Được an lớn lao.

知 Đệ lục giác tri Thứ sáugiác-ngộ: 怨 Bần khổ đa oán Nghèo khổ oán nhiều 緣 Hoạnh kiết ác duyên Kết nhiều duyên ác 施 Bồ-tát bố thí Bồ-tát bố thí 親 Đẳng niệm oán thân Oán thân bình đẳng 惡 Bất niệm cựu ác Không nghĩ ác cũ 人 Bất tắng ác nhơn Không ghét ác-nhân..

悟 Đệ thất giác ngộ Thứ bảy giác-ngộ: 患 Ngũ dục quá hoạn Tai-hoạn năm dục 人 Tuy vi tục nhân Tuy là người tục 樂 Bất nhiễm thế lạc Không nhiễm vui đời 衣 Thường niệm tam y Luôn luôn nghĩ đến 器 Ngõa bát pháp khí Y bát pháp-khí 家 Chí nguyện xuất gia Chí nguyện xuất gia 白 Thủ đạo thanh bạch Giữ đạo thanh bạch 遠 Phạm hạnh cao viễn Phạm hạnh cao xa 切 Từ bi nhất thiết Lành thương hết thảy.

知 Đệ bát giác tri Thứ tám giác-ngộ: 然 Sinh tử xí nhiên Sinh-tử thiêu đốt 量 Khổ não vô lượng Khổ não vô lượng 心 Phát đại thừa tâm Phát tâm đại-thừa 切 Phổ tế nhất thiết Cứu giúp hết thảy 生 Nguyện đại chúng sinh Nguyện thay chúng sinh 苦 Thọ vô lượng khổ Nhận vô lượng khổ 生 Linh chư chúng sinh Khiến mọi chúng sinh 樂 Tất cánh đại lạc Được đại an-lạc.

如 此 八 事 Như thử bát sự Tám điều như thế

奶 是 諸 佛 Nãi thị chư Phật Là điều các đức Phật

薩 大 人 Bồ-tát đại-nhân Bồ-tát đại-nhân

之 所 覺 Chi sở giác-ngộ làm nơi giác-ngộ

行 道 Tính-tiến hành đạo Tinh-tiến hành đạo

悲 修 慧 Từ bi tu tuệ Từ-bi tu tuệ

乘 法 身 船 Thừa pháp-thân thuyền Chuyền thuyền pháp-thân

至 涅 槃 岸 Chí Niết-bàn ngạn Đến bờ Niết-bàn

完 生 Phục hoàn sinh tử Trở lại sinh-tử

脫 眾 Độ thoát chúng-sinh Độ thoát chúng-sinh

前 八 Dĩ tiền bát sự Đem tám sự trước

開 道 Khai đạo nhất thiết Khai đạo hết thảy

令 諸 眾 Linh chư chúng-sinh Khiến cho chúng-sinh

覺 生 Giác sinh-tử khổ Biết sinh tử khổ

離 五 欲 Xả ly ngũ dục Xa lìa năm dục

修 心 聖 道 Tu tâm thánh đạo Tu tâm thánh đạo

若 佛弟 Nhược Phật đệ-tử Nếu đệ-tử Phật

誦 此 八 事 Tụng thử bát sự Tụng tám sự sự ấy

於 念 念 中 Ư niệm niệm trung Trong từng niệm niệm

滅 無 量 罪 Diệt vô-lượng tội Diệt tội vô lượng

進 首 菩 提 Tiến thú Bồ-đề Tiến đến Bồ-đề

速 登 正 覺 Tốc đăng chính-giác Chóng thành chánh-giác

永 斷 生 Vĩnh đoạn sinh-tử Dứt hẳn sanh-tử

常 住 快 樂 Thường trụ khoái lạc Thường trụ tịnh-lạc

***




Kinh Bát Đại Nhân Giác được hiểu là “Tám điều giác ngộ của các bậc Bồ tát” hay “Tám điều giác ngộ của các bậc thượng nhân”. Khi phân tích ứng dụng bài kinh này, chúng tôi sẽ không chú trọng đến lịch sử và nhân bản học của nó trong lịch sử Tam Tạng, mà chỉ nhấn mạnh đến góc độ ứng dụng từ việc khai thác nội dung súc tích của bản kinh. Nếu áp dụng kinh vào cuộc sống thì giá trị trải nghiệm của nó sẽ cao, do đó ta khỏi bận tâm nhiều đến việc so sánh đối chiếu giữa kinh này với những kinh khác. Gọi “Tám điều giác ngộ”, nhưng thực ra mỗi điều lại chứa nhiều minh triết khác, do đó học một điều trong tám điều cũng có thể giúp chúng ta trở thành bậc giác ngộ nếu như sự trải nghiệm của chúng ta trọn vẹn, thấu đáo, có phương pháp và đến nơi đến chốn.

MỤC LỤC

Thay lời tựa Phần 1: Cuộc đời vô thường Thế gian vô thường, Đất nước mong manh, Đất, nước, gió, lửa là không thực thể Con người là vô ngã , Sinh diệt biến đổi, Tâm là nguồn ác, Thân dễ tạo tội Phần 2: Tham nhiều khổ nhiều Tham nhiều khổ nhiều, Dục từ lòng tham Dục từ những ham muốn ở dạng trung tính Dục trong sự hưởng thụ các khoái lạc giác quan Dục và tái sanh, Chuyển hóa tính dục, Thân tự tại, Tâm tự tại, Hướng đến vô vi Phần 3: Từ bỏ thói đời Nên bỏ thói đời, Tâm tham cầu không đáy, Tham nhiều tội nhiều Bồ-tát không còn tham, Hài lòng và biết đủ, Giữ tâm với đạo, Trí tuệ là sự nghiệp Phần 4: Nỗ lực chuyển hóa Nỗ lực là nhu cầu, Lười biếng đọa lạc, Tinh tấn hướng thiện Vẫy chào phiền não, Dẹp sạch các ma, Vượt ngục ngũ uẩn Phần 5: Học rộng hiểu nhiều Văn tư tu, Tái sinh do vô minh, Chánh niệm của Bồ-tát, Học rộng hiểu nhiều Trí tuệ lớn mạnh, Diễn thuyết vô ngại, Hóa độ chúng sanh, Đạt niềm vui lớn Phần 6: Dâng tặng niềm vui Nghèo khổ dễ oán, Gặp nhiều trở ngại, Bồ-tát giúp đời Không phân biệt đối xử Không ghìm lỗi cũ, Không ghét kẻ xấu Phần 7: Sống đời thanh cao Năm dục nguy hại, Trong đời, không nhiễm đời, Ba y một bát Chí nguyện thong dong, Thanh tịnh giữ đạo, Giới đức sáng ngời,Từ bi hóa độ Phần 8: Phát tâm đại thừa Khổ đau trong sinh tử, Nuôi tâm Đại thừa Cứu người và giúp đời, Chịu khổ thay người, Ban tặng hạnh phúc Phụ lục: Kinh Bát Đại Nhân Giác (Hán Việt) Phụ lục: Kinh Tám Điều Giác Ngộ (bản dịch thơ)






Thay lời tựa

Kinh Bát Đại Nhân Giác được hiểu nôm na là “Tám điều giác ngộ của các bậc Bồ tát” hay “Tám điều giác ngộ của các bậc thượng nhân”. Khi phân tích ứng dụng bài kinh này, chúng tôi sẽ không chú trọng đến lịch sử và nhân bản học của nó trong lịch sử Tam Tạng, mà chỉ nhấn mạnh đến góc độ ứng dụng từ việc khai thác nội dung súc tích của bản kinh. Nếu áp dụng kinh vào cuộc sống thì giá trị trải nghiệm của nó sẽ cao, do đó ta khỏi bận tâm nhiều đến việc so sánh đối chiếu giữa kinh này với những kinh khác.

Gọi “Tám điều giác ngộ”, nhưng thực ra mỗi điều lại chứa nhiều minh triết khác, do đó học một điều trong tám điều cũng có thể giúp chúng ta trở thành bậc giác ngộ nếu như sự trải nghiệm của chúng ta trọn vẹn, thấu đáo, có phương pháp và đến nơi đến chốn.

Trong kho tạng kinh điển bằng chữ Hán, kinh Bát Đại Nhân Giác thuộc bài 779 của Đại Chánh Tăng Tu Đại Tạng kinh, được thái tử An Thế Cao dịch vào năm 148 tây lịch. An Thế Cao là một vị cao tăng, sau khi giác ngộ nền minh triết của Phật giáo, ông từ bỏ ngôi vua, trở thành một nhà sư và là thái tử của nước An Tức, một phần thuộc về Ba Tư, một phần thuộc về lãnh thổ A Phú Hãn, tức Afghanistan ngày nay.

Vào thời điểm đó, đạo Phật phát triển rất thịnh hành ở vùng Trung Đông. Những công trình vĩ đại như hai tượng Phật ở Afghanistan bị phá hủy là bằng chứng cho thấy sự lớn mạnh của đạo Phật đại thừa. Cũng vào thời điểm đó, phần lớn lãnh thổ Trung Đông thuộc về Phật giáo. Khi dấu giày xâm lược của Hồi giáo lan truyền rộng rãi ở Trung Đông, Trung Á và toàn Châu Á thì các mảnh đất đại thừa dần dà nhường bước cho Hồi giáo ngự trị, vì chính sách cai trị của Hồi giáo lúc bấy giờ rất khắc nghiệt. Ai theo thì được tạo điều kiện thuận lợi về phương diện thăng tiến xã hội, còn ai không theo thì bị chém đầu, giết chết, thủ tiêu, ám sát và trừng phạt nặng nề, điều đó khiến các nhà tri thức Phật giáo phải tìm cách ẩn danh hoặc vượt biên sang nước khác, sau đó hòa nhập trở thành người bỏ đạo, bằng không sẽ không có cơ hội tồn tại.

Kinh Bát Đại Nhân Giác mặc dầu được đề cập trong văn học Đại thừa là kinh dành cho các bậc đại nhân, tức các vị Bồ tát, trên thực tế nội dung cuốn kinh một mặt khái quát một thế giới quan duyên khởi và vô ngã, mặt khác giới thiệu một nhân sinh quan trên nền tảng đạo đức và chuyển hóa. Nhận diện cuộc đời là vô thường, sự sống con người là vô ngã, mọi thứ biến dịch, việc từ bỏ thói đời và các tâm lý tiêu cực được xem là nền tảng an vui.

Nỗ lực chuyển hóa các phiền não nhờ vào sự học rộng hiểu nhiều Phật pháp, hành giả có khả năng dâng tặng niềm vui cho đời. Không tham đắm ngũ dục, thấy rõ các bất hạnh của nghèo khó, các hành giả thực tập hạnh chia sẻ không phân biệt thân sơ. Nuôi lớn tâm từ bi, phát triển trí tuệ, thực tập thiền định, chuyển hóa thân tâm, phát bồ đề tâm, hướng về đời thường nhằm mang lại hạnh phúc cho số đông.

Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân, bây giờ và tại đây. Giá trị đó thiết thực hiện tại và siêu việt thời gian. TT. Thích Nhật Từ


Kinh Bát Ðại Nhân Giác Thích Viên Giác dịch và giảng

Trường Cơ Bản Phật Học Long An -- Giáo Án, 1998

Chương I : Nhận Thức Tổng Quát

-oOo-

I. Tác Giả Soạn Dịch Kinh Bát Ðại Nhân Giác

Kinh Bát Ðại Nhân Giác do Ngài An Thế Cao dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào thời Hậu Hán đời vua Hán Tuyên Ðế, niên hiệu Kiến Hòa năm thứ hai (147. TL). Ngài là Thái tử nước An Tức (nay là Ba Tư). Ngài còn có tên là An Thanh hay An Hầu, nhường ngôi vua cho chú mà đi xuất gia. Ngài là một người con hiếu hạnh, kiến thức uyên bác, thông thiên văn địa lý, y dược và châm cứu. Ðối với Phật học Ngài thông hiểu Tam Tạng Kinh Luật Luận nhất là đối với thiền học, đặc biệt Ngài hiểu cả tiếng chim thú. Ngay khi còn ở tại gia Ngài đã giữ gìn giới pháp tinh nghiêm, thâm cảm lẽ vô thường của đời sống, chí nguyện xuất gia canh cánh bên lòng. Vì vậy, sau khi mãn tang cha Ngài nhường ngôi cho chú. Ðây là một yếu tố quan trọng: Ngài thấu hiểu vai trò người cư sĩ tại gia vẫn có thể tu hành thanh tịnh và làm lợi ích chúng sanh. Cũng có lẽ vì vậy mà Ngài đã thiết lập hướng đi kinh Tám điều Giác ngộ của Bậc Ðại Nhân có đường lối tu tập đặc biệt so với kinh Nguyên thủy.

Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa bằng đường biển vào năm 146-147, là người đầu tiên dịch số lượng kinh sách lớn ra Hán văn, nhất là các kinh sách về tu thiền. Vì vậy, Ngài được coi là người lập ra thiền tông vào thời kỳ đầu của Phật giáo Trung Hoa. Mặc dù đến Trung Hoa Ngài mới học Hán văn nhưng khả năng dịch thuật của Ngài rất chính xác như Ngài Ðạo An nhận xét: "Trước sau truyền dịch đa số lầm lẫn, duy của Ngài dịch đứng đầu tất cả" (HT Trí Quang). Ðược như vậy là nhờ Ngài thành lập những bộ phận chuyên môn dịch kinh sách một cách có hệ thống. Cuộc đời của Ngài có nhiều kỳ tích đặc biệt như Ngài biết trước những duyên nghiệp của mình, Ngài đã sắp đặt mọi việc để kết thúc đời mình: -"Ngài nhờ người bán rương thuê một người giúp việc và đặt tên cho người ấy là Phước Thiện, Ngài nói là "Thiện tri thức" của ta. Quả nhiên về sau người nầy đâm bên hông của Ngài và Ngài mất" (Trí Quang - Dịch giải Kinh Bát Ðại Nhân Giác).

Ngài ở Trung Hoa hơn hai mươi năm (147-171) chuyên dịch kinh số lượng dịch từ 34 đến 40 bản chia làm hai loại: kinh tạng và các tác phẩm tu tập thiền định,tiêu biểu như Kinh An Ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập, A Tỳ Ðàm, Ngã pháp Tứ Ðế, Thập nhị nhân duyên, Chuyển pháp luân, Bát thánh đạo, Thiền hành pháp tưởng, Tu Hành đạo... Ngài được coi là vị Tổ khai sơn của Phật giáo Trung Hoa.

II. Xuất Xứ

Kinh Bát Ðại Nhân Giác do Ngài An Thế Cao dịch vào thế kỷ thứ II. Mặc dù gọi là kinh nhưng không phải là một bản kinh theo truyền thống, tức là có Phật thuyết và đối tượng nghe thuyết, mà chỉ là những Phật ngôn hay những Bài kệ cô đọng được rút ra từ kinh tạng, hoặc từ những ý nghĩa giáo pháp tâm đắc của tác giả.

Hòa thượng Trí Quang trong tác phẩm: "Dịch giải kinh Tám Ðiều Thượng Nhân giác ngộ" nhận định: "Kinh nầy trích lục Phật ngôn mà tập thành không phải là một pháp thoại tức là một bản kinh. Do đó mà có bản ghi là "Hiền Thánh Ðất Ấn biên tập".

Tôi ước lượng có thể chính tác giả trích và dịch thành kinh nầy" (sđd). Ðồng với quan điểm trên, Hòa thượng Thanh Ngài (An Thế Cao) phương tiện rút từng phần tinh yếu của Phật pháp trong nhiều bộ kinh mà dịch, phân ra thứ Từ cũng nhận xét: nhất, thứ hai, thứ ba... đến thứ tám tập thành kinh Bát Ðại Nhân Giác để cho người mới phát tâm tu học, dễ nắm được những điểm cần yếu trong Phật pháp" (Kinh Bát Ðại Nhân Giác giảng giải, NXB Thuận Hoá- Huế 1996).

Như vậy, bản Kinh Bát Ðại Nhân Giác được xác định là trích lục từ các Phật ngôn ở trong các kinh, tác giả của việc trích lục và sắp xếp từ một đến tám là do chính Ngài An Thế Cao dịch và soạn.

Một vấn đề đặt ra là Ngài trích lục biên soạn từ kinh nào? Tại sao lại tám điều chứ không bảy hay chín?

Chúng tôi cho rằng Ngài An Thế Cao không hoàn toàn tự ý trích lục hay sáng tác mà có cơ sở để Ngài dựa vào đó mà xây dựng tám điều giác ngộ của Bậc Ðại Nhân.

Cơ sở nầy chính là kinh tạng A-Hàm; chính xác là Kinh Bát niệm, tức là kinh tám điều suy niệm của Bậc Ðại Nhân. Nội dung của kinh Bát niệm nêu lên tám điều suy niệm của một người trên đường giải thoát, nhờ suy niệm quán chiếu tám điều ấy mà được chứng đạt chân lý tối hậu.

Tương đương với Kinh Bát niệm của Trung A Hàm, kinh Tăng Chi (Anguttara Nikàya) chương Tám pháp, phẩm Gia chủ, mục Anuruddha cũng đưa ra tám điều tư niệm của Bậc Ðại Nhân, nội dung hoàn toàn giống nhau, đều thuộc về kinh Tạng Nguyên thủy. Cần nói thêm rằng trong Di Giáo tám công đức xuất thế chính là tám điều tư niệm nầy.

Như vậy, có thể nói Kinh Bát niệm của Trung A-Hàm và Kinh Anuruddha (Sutta) của Tăng Chi cũng như nhiều Kinh khác tương đương trong hệ thống Kinh tạng Nguyên thủy, đã làm cơ sở cho Ngài An Thế Cao soạn dịch Kinh Bát Ðại Nhân Giác ra Hán văn.

III. Liên Hệ Các Kinh Bát Niệm, Anuruddha Sutta Và Kinh Bát Ðại Nhân Giác

1. Những điểm giống nhau

1.a. Ðề kinh: Kinh Bát Ðại Nhân Giác dịch là Tám điều giác ngộ của Bậc Ðại Nhân,kinh Bát niệm dịch là Tám điều suy niệm của Bậc Ðại Nhân trong Anuruddha Sutta dịch là tám điều tư niệm của Bậc Ðại Nhân. Từ giác ngộ, suy niệm hay tư niệm ý nghĩa là một.

Kinh Bát Ðại Nhân Giác có khi dùng Giác tri như điều một Giác ngộ, điều hai, ba bốn dùng Giác tri, điều năm Giác ngộ, điều sáu Giác tri, điều bảy Giác ngộ, điều tám Giác tri. Dùng từ ngữ Giác ngộ và Giác tri lẫn lộn có nghĩa là cả hai từ ngữ là một, cả hai đều chỉ cho trí tuệ quán chiếu, là tư duy sâu sắc chớ không phải nhận thức thông thường.

A-Hàm dịch Tư niệm hay Suy niệm cũng chỉ cho sự tư duy sâu sắc an trú đối tượng, là sự thấy rõ và thường xuyên đối tượng quán chiếu. Như vậy, Giác ngộ, Giác tri, Suy niệm, Tư niệm chỉ là một mà thôi.

Tất cả các kinh trên đều dùng chữ Ðại Nhân. Kinh Bát Niệm, Phật dạy: "Này A-na-luật-đà nếu thầy thành tựu tám suy niệm của Bậc Ðại Nhân". Tăng Chi Phật dạy: "Này Anuruddha khi nào người suy nghĩ đến tám tư niệm nầy của Bậc Ðại Nhân..."

Như vậy đề kinh không có gì sai khác, có thể nói rằng đề Kinh Bát Ðại Nhân Giác được dịch từ tám tư niệm của Bậc Ðại Nhân trong kinh tạng Nguyên thủy.

1.b. Nội dung kinh:

Kinh Bát Ðại Nhân Giác đưa ra tám điều thứ tự như sau:

1. Tứ niệm xứ 2. Thiểu dục 3. Tri túc 4. Tinh tấn 5. Trí tuệ 6. Bố thí 7. Yểm ly 8. Tu Hạnh chịu thay. (lợi tha tuyệt đối)

Kinh Bát Niệm và Anuruddha Sutta:

1. Vô dục (thiểu dục) 2. Tri túc 3. Viễn ly 4. Tinh tấn 5. Chánh niệm 6. Ðịnh ý 7. Trí tuệ 8. Không hý luận

Những điều giống nhau gồm có:

1. Tu Tứ Niệm Xứ tương đương Chánh niệm 2. Thiểu dục tương đương Thiểu dục hay vô dục 3. Tri túc tương đương Tri túc 4. Tinh tấn tương đương Tinh tấn 5. Trí tuệ tương đương Trí tuệ 6. 7. và 8 không tương đương A Hàm và Nikàya

2. Những điểm khác nhau:

2.a.Về hình thức:

- Kinh Bát Ðại Nhân Giác do Ngài An Thế Cao soạn dịch như một tác phẩm văn học trình bày ngắn gọn, ngôn từ văn vẻ, tương tự như những Phật ngôn của Kinh Pháp Cú, không nói riêng cho đối tượng cụ thể nào, không mang hình thức pháp thoại như những kinh truyền thống.

- Còn Kinh Bát Niệm và Anuruddha sutta là một thời pháp thoại do Ðức Phật dạy trực tiếp Anuruddha và sau đó Ngài giảng rộng cho chúng Tỳ Kheo nên kinh mang hình thức truyền thống.

2.b.Về mặt nội dung:

-Kinh Bát Ðại Nhân Giác có ba điều cuối là bố thí, yểm ly, tu chịu thay mà A Hàm không có. - Ngược lại A Hàm có ba điều viễn ly, Ðịnh ý và không hý luận thì Kinh Bát Ðại Nhân Giác không có.

Sự khác biệt giữa hai kinh qua ba điều trên nói lên sự khác biệt về xu hướng tu tập và hành đạo của Nguyên thủy và Ðại thừa hay nói cách khác giữa một vị Tỳ Kheo và một vị Bồ Tát. Qua sự khác biệt trên chúng ta có một vài nhận xét sau:

Về căn bản tu tập thì cả hai kinh đều giống nhau, những đức tính căn bản của người tu hành gồm có: Thiểu dục, tri túc, chánh niệm, tinh tấn, trí tuệ, đều được đề cập trong hầu hết kinh tạng Phật giáo. Bởi vì đó là những bước đi phải có và đủ mới bước lên thánh đạo, dù là Nguyên thủy hay Ðại thừa.

Con đường tu tập của Bát Ðại Nhân Giác không qua thiền định.

Trong khi đó yếu tố thiền định trong kinh Bát Niệm là chủ yếu.

Mục tiêu của Phật là phát triển trí tuệ, khả năng đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Có thể do định phát tuệ nhưng có thể do quán niệm mà phát tuệ hoặc cũng có thể do đại nguyện mà tuệ sanh. Con đường quán niệm và đại nguyện là con đường của Bát Ðại Nhân Giác.

Hạnh bố thí là hạnh chung của người Phật tử không kể là tại gia hay xuất gia. Thông thường thì người xuất gia thực hành pháp thí, người tại gia thì thực hành tài thí. Bố thí là một trong sáu hạnh Ba La Mật trong truyền thống Ðại thừa rất được nhấn mạnh. Người Phật tử tại gia có điều kiện hơn để bố thí, vì theo kinh văn thì chủ yếu là bố thí vật chất.

Hạnh yểm ly hay ly nhiễm chính là xa rời năm dục, đối với người xuất gia thì đây là bước đầu, nhưng đối với người tại gia là bước quan trọng vì họ sống giữa thế tục, kinh văn đặt vấn đề nầy vào vị trí thứ bảy tức rất coi trọng nó. Cho nên hạnh nầy như là dành cho người cư sĩ, chính cư sĩ mới dấn thân vào cuộc sống để thực hành Bồ Tát hạnh, họ sống thế nào để như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Hạnh tu chịu thay là nguyện thay cho chúng sanh chịu khổ để cho chúng sanh được hạnh phúc, đây là hạnh lợi tha tuyệt đối, là lý tưởng của Bồ Tát, là một hạnh nguyện vĩ đại, phải là người có tâm từ bi lớn và trí tuệ lớn mới thực hành nổi. Một trong những Bồ Tát tiêu biểu cho hạnh nầy là Bồ Tát Ðịa Tạng. Ngài Ðịa Tạng phát đại nguyện rằng khi nào địa ngục hết chúng sanh thọ khổ Ngài mới thành Phật. Con đường Bồ Tát rất coi trọng về nguyện lực, từ nguyện lực mà tuệ giải thoát sinh và dĩ nhiên công hạnh tu tập phù hợp với người cư sĩ tại gia sống trong biển khổ. Ðây là pháp môn tu tập đặt biệt của Phật Giáo.

Tóm lại ba hạnh sau cùng của kinh Bát Ðại Nhân Giác biểu hiện hành động của một vị Bồ tát đi vào cuộc đời hóa độ chúng sanh, chúng ta cũng nhận thấy rằng hình ảnh một vị Tỳ Kheo rất khó xông xáo vào đời sống, vị cư sĩ có nhiều điều kiện hơn. Tôi có cảm tưởng rằng tác giả đã gửi gắm lý tưởng nầy cho người cư sĩ hơn là người xuất gia.

Hòa thượng Tinh Vân, trong tác phẩm "Mười bài giảng kinh Bát Ðại Nhân Giác" Ngài nói: "Phần đông các Ðại đức đều thừa nhận kinh nầy rất thích hợp cho hàng Phật tử tại gia thọ trì ... Theo tôi ( Ngài Tinh Vân) nghĩ, kinh này là một quyển bảo điển tối trân quý để kiến lập nhân sinh Phật giáo, tu học tại gia Phật giáo" (Minh Quang dịch).

Mẫu người lý tưởng của Bát Ðại Nhân Giác là một người cư sĩ thực hiện lý tưởng giải thoát ngay trong đời sống vốn nhiều ô nhiễm và khổ đau. Ðó là mẫu người tiêu biểu cho hạnh nguyện và giải thoát. Trong Phật Giáo đại thừa Bồ Tát cư sĩ được đề cao như trường hợp Duy Ma Cật, vị trí của ông được coi là siêu việt hơn các vị Bồ Tát xuất gia. Phật Giáo Bắc Tông, Tỳ Kheo thường thọ thêm Bồ Tát Giới nhưng rõ rằng là hoạt động rất hạn chế. Trong Bồ Tát Giới cũng dành khá nhiều giới được coi là của người cư sĩ. Sự bao hàm đường lối của người xuất gia và tại gia vào trong con đường Bồ Tát hạnh làm cho các tác phẩm Ðại thừa trở nên bao quát, phong phú, rộng rãi nhưng cũng tạo ra một vài trường hợp thiếu nhất quán.

Ðối với ba đức tính thuộc A-Hàm và Nikàya mà Bát Ðại Nhân Giác không có là: Sống viễn ly, Thiền định và Không hý luận. Ba đức tính nầy có giá trị khác: Hình ảnh của một vị Tỳ Kheo sống ở trong rừng hay xóm làng vắng vẻ, không thích tụ hội đông người, nhờ đó vị Tỳ Kheo dễ dàng tu tập tâm định và chứng đạt chân lý, từ đó thấy rõ bản chất của các pháp, chấm dứt những hý luận vô ích những tư duy huyễn hoặc, đạt được an lạc tịch tĩnh Niết Bàn. Ðó là hình ảnh của Tăng bảo, biểu tượng của đạo đức và giải thoát. Ðó không phải là lối sống của mọi người, chắc chắn không phải là lối sống của người cư sĩ. Có người cho rằng đời sống như vậy hơi tiêu cực chỉ lợi ích cho bản thân mình... Thật ra nếu sống tiêu cực và chỉ lợi ích cho mình làm sao mà giải thoát được? Nếu sự giải thoát khổ đau cho chúng sinh mà không dựa trên căn bản giải thoát tự thân thì chỉ xây dựng lâu đài trên cát.

Tám điều tư niệm của Bậc Ðại Nhân trong A-Hàm và Nikàya Ðức Phật dạy cho Ngài Anuruddha và chúng Tỳ kheo, nhờ hành trì tám điều ấy mà Ngài Anuruddha đắc quả A La Hán, đại chúng Tỳ kheo cũng nhờ hành trì tám điều nầy mà thành tựu được Bậc Ðại Nhân tức quả A La Hán hay đang hướng về quả A La Hán.

Qua trình bày trên chúng ta đừng vội so sánh và phê bình hình ảnh của vị Tỳ Kheo là Tiểu thừa hay vị Bồ Tát là Ðại thừa. Vì như vậy ta chưa hiểu hết vấn đề, chúng ta không thể coi pháp môn nào cao hơn pháp môn nào. Bởi lẽ, tất cả mọi pháp môn mà Ðức Phật dạy đều là phương tiện là chiếc bè để qua sông, dòng sông sanh tử. Mục đích chung và tối hậu là giải thoát Niết Bàn.

IV. Giới Thiệu Nội Dung "Kinh Bát Niệm" Của A-Hàm

1. Phần duyên khởi

Ðức Phật đang ở tại Bà Kỳ Sấu trong Ngạc Sơn Bố Lâm, vườn Lộc Uyển. Bấy giờ Tôn Giả A- Na- Luật Ðà ở tại Chi Ðề Sấu trong rừng Thủy Chử. Tôn Giả đang thiền tư như sau: "Ðạo do vô dục mà chứng đắc chứ không phải do dục. Ðạo do tri túc mà chứng đắc chứ không phải do không nhàm chán. Ðạo do viễn ly mà chứng đắc chứ không phải do sự ưa tụ hội, sống ở chỗ tụ hội, hòa đồng nơi tụ hội. Ðạo do tinh cần mà chứng đắc chứ không do nơi biếng nhác. Ðạo do chánh niệm mà chứng đắc chứ không do nơi tà niệm. Ðạo do định ý mà chứng đắc chứ không do nơi loạn ý. Ðạo do trí tuệ mà chứng đắc chứ không phải do ngu si".

2. Phần nội dung

Ðức Thế Tôn biết được nội dung tư duy của Tôn Giả A Na Luật Ðà, nên Ðức Thế Tôn đến gặp Tôn Giả, tán thán bảy điều mà Tôn Giả đang thiền tư, đồng thời Ngài dạy cho Tôn Giả thêm điều thứ tám rằng: "Ngươi hãy thọ trì thêm suy niệm thứ tám của Bậc Ðại Nhân là đạo do không hý luận chứ không phải do hý luận, thích hý luận, thực hành hý luận mà chứng đắc".

Ðức Thế Tôn khích lệ thêm rằng nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Ðại Nhân thì có thể chứng đắc tứ thiền và thành tựu bốn tăng thượng tâm một cách dễ dàng, sống an lạc ngay trong hiện tại. Tôn giả sẽ mặc y phấn tảo mà chẳng khác nào mặc hoàng bào, ăn cơm khất thực mà chẳng khác nào cao lương mỹ vị, ngủ dưới gốc cây mà chẳng khác nào lầu son gác tía, nằm ngồi chỗ cỏ rơm chẳng khác nệm ấm chăn êm.

Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Ðại Nhân thì ở phương Ðông, Tây, Nam, Bắc hay bất cứ ở đâu Tôn giả vẫn được an lạc, không có các tai họa đau khổ.

Nếu Tôn giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Ðại Nhân thì thiện pháp ngày đêm được tăng trưởng không có dừng lại và suy thoái.

Nếu Tôn Giả thành tựu tám suy niệm của Bậc Ðại Nhân thì đối với hai quả sẽ được một: Hoặc là được cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc nếu còn hữu dư thì được A Na Hàm.

Sau khi Ðức Thế Tôn khích lệ Tôn giả A Na Luật Ðà, Ngài trở về triệu tập chúng Tỳ Kheo và thuyết tám điều suy niệm của Bậc Ðại Nhân một cách chi tiết hơn:

* Ðạo do vô dục: Vị Tỳ Kheo chứng đắc vô dục, tự biết mình chứng đắc vô dục, không làm cho kẻ khác biết mình vô dục. Ðối với sự chứng đắc về tri túc, viễn ly, tinh cần, chánh niệm, định ý, trí tuệ và không hý luận cũng như vậy, gọi là đạo do vô dục.

* Ðạo do tri túc: Tỳ kheo thực hành tri túc, áo để che thân, ăn để nuôi thân, sàng tọa, dược phẩm cũng vậy.

* Ðạo do viễn ly: Tỳ kheo thực hành viễn ly thành tựu hai hạnh viễn ly: Viễn ly thân và viễn ly tâm.

* Ðạo do tinh cần: Tỳ kheo thực hành tinh cần đoạn trừ ác bất thiện pháp, tu các thiện pháp, thường tự khởi ý chuyên nhất, kiên cố, vì các gốc rễ thiện mà không hề nề hà khó nhọc.

* Ðạo do chánh niệm: Tỳ kheo quán nội thân như thân, nội thọ như thọ, nội tâm như tâm, nội pháp như pháp.

* Ðạo do định ý: Tỳ kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp cho đến chứng đắc tứ thiền thành tựu và an trú.

* Ðạo do trí tuệ: Tỳ kheo tu hạnh trí tuệ quán pháp hưng suy, chứng đắc trí, thánh tuệ, minh đạt, phân biệt rõ ràng để dứt sạch khổ đau.

* Ðạo do không hý luận: Tỳ kheo tâm ý thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô dư Niết bàn, tâm thường lạc thú, hoan hỷ ý giải.

3. Phần kết luận

Ðức Thế Tôn dạy đại chúng xong, Ngài cho biết Tỳ kheo A Na Luật Ðà thành tựu tám suy niệm của Bậc Ðại Nhân, sau đó an cư tại Chi- Ðề- Sấu trong rừng Thủy Chử. Vị Tỳ kheo ấy đã tự thân chứng đắc và an trú vô thượng phạm hạnh.

Ðại chúng Tỳ kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.

V. Vài Lời Giải Thích

1. So sánh với Kinh Tăng Chi

Kinh Tăng Chi III, chương Tám pháp, phẩm Gia Chủ, mục Anuruddha. Nội dung kinh hoàn toàn giống nhau về đại thể và có khác nhau một vài chi tiết như:

- A-Hàm nói vô dục, Tăng Chi là ít dục.

- Về tri túc, Tăng Chi giải thích đủ về "Tứ vật dụng" của một Tỳ kheo gồm thực phẩm, y áo, sàng tọa, dược phẩm, còn A-Hàm chỉ nói ăn và mặc.

- Về điều ưa sống viễn ly A-Hàm giải thích là thân và tâm đều viễn ly, còn Tăng Chi đề cập đến trường hợp nhiều người đến thăm hay vấn đạo vị Tỳ kheo nhưng tâm vị ấy thuận về viễn ly, hướng về viễn ly, thuyết pháp liên hệ đến viễn ly, đây là một chi tiết rất hay.

- Về chánh niệm A-Hàm đề cập đến Tứ niệm xứ, còn Tăng Chi nói một cách tổng quát rằng thành tựu niệm tuệ tối thắng, ức nhớ tùy niệm những điều đã làm, đã nói dù đã lâu.

- Về điều thứ tám không hý luận, Tăng Chi giải thích đoạn diệt hý luận, tâm được phấn chấn, tịnh tín, an trú hướng đến cứu cánh phạm hạnh, còn A-Hàm giải thích tâm ý thường diệt hý luận, an lạc trú trong Vô Dư Niết Bàn.

Tóm lại sự khác biệt thuộc A-Hàm và Nikàya là không đáng kể, chỉ có tính cách sử dụng ngôn ngữ mà thôi.

2. So sánh với kinh Di Giáo

Kinh Di Giáo đưa ra tám công đức xuất thế như sau: ít ham muốn, biết đủ, siêu thoát (viễn ly), tinh tấn, chánh niệm, thiền định, trí tuệ và không hý luận.

Tám công đức xuất thế nầy chính là nội dung kinh Bát niệm hay tám điều suy niệm của Bậc Ðại Nhân, có thể nói kinh Bát niệm là xuất xứ của tám công đức xuất thế trong kinh Di Giáo.

Trong tác phẩm dịch giải kinh Di Giáo, H.T. Trí Quang viết: "Công đức xuất thế cũng gọi là công đức thượng nhân. Các bậc Thượng Nhân ( Ðại Nhân) thường dùng tám công đức nầy để tự giác, tự soát, hầu nuôi lớn phương tiện và thành tựu cứu cánh". "Tám công đức nầy liên hệ và tương đồng với mười pháp của Ðại Bát Niết Bàn".

Ngài Thế Thân trong tác phẩm Di Giáo kinh luận đã chia tám pháp công đức này thành hai phần:

- Phần một là bảy pháp đầu gọi là nuôi lớn phương tiện.

- Phần hai là pháp thứ tám gọi là thành tựu cứu cánh.

Như vậy pháp không hý luận có ý nghĩa rất lớn trong tám công đức.

Tám công đức xuất thế trong kinh Di Giáo về tiêu đề và thứ tự hoàn toàn giống kinh Bát niệm chỉ có sự khác biệt chút ít về giải thích.

3. Vấn đề vô dục

Thông thường chúng ta hiểu vô dục là không tham dục, hoặc ít dục là ít sự ham muốn về các nhu cầu ăn, mặc, ngủ nghỉ, dược phẩm (đối với Tỳ Kheo) hoặc ít ham muốn hưởng thụ dục lạc, giác quan như ngũ dục... Nhưng khi giải thích vô dục, Ðức Phật dạy vô dục trong nghĩa rất rộng mang tính triết học hơn, tức là những sở đắc, kết quả tu tập, những thành tựu trong quá trình quán chiếu, thiền định, những công hạnh đạt được đều không chấp thủ, không được khoe khoang hay khởi ước muốn mọi người biết đến mình, đến thành quả của mình. Ðó gọi là vô dục. Ðây là một định nghĩa về vô dục rất đặc biệt mà ở nơi khác không có. Qua định nghĩa này có thể làm tiêu chuẩn cho chúng ta về mẫu người tu tập và giải thoát. Vị ấy không khoe khoang về các thành quả của mình, kể cả các thành quả về giới, về định, về tuệ và về giải thoát.

4. Vấn đề sống viễn ly

Ðây là vấn đề được coi trọng trong quá trình tu tập theo truyền thống Nguyên thủy, các kinh cả A-hàm và Nikàya đều nói đến rất nhiều, cho nên thường bị các bộ phái cấp tiến phê phán cho rằng xa rời quần chúng, ích kỷ, làm cho Phật giáo không phổ cập mọi người. Thật ra đời sống viễn ly rất cần thiết cho hành giả tu tập đoạn trừ ái dục, nếu đang tu tập thiền định mà bị quấy rầy hoặc chi phối bởi ngoại cảnh thì công phu thiền định sẽ mất.

Ðức Phật và Thánh tăng thời xưa dù sống viễn ly mà vẫn hoá độ chúng sanh, nhờ viễn ly mà "Tùy duyên" vẫn giữ được "Bất biến". Nếu đừng quá cường điệu, cực đoan thì đời sống viễn ly là tốt cho cả hai mặt tự lợi và lợi tha.

Kinh Tăng Chi khi đề cập đến hạnh viễn ly cho rằng khi tiếp xúc với mọi người mọi giới hoặc làm việc mà tâm vẫn an trú, hướng về viễn ly hay nói cách khác nếu giữ tâm vững chãi không bị ngoại cảnh tác động thì dù gặp cảnh nào cũng không bị rối loạn, đó là ý nghĩa của viễn ly. Như vậy cũng có thể nói hạnh ly nhiễm của kinh Bát Ðại Nhân Giác cũng có thể coi là tương đương hạnh viễn ly này. Ðiều thứ bảy giác ngộ đã nói lên xu hướng và quyết tâm từ bỏ năm dục thực hành phạm hạnh ngay trong đời sống thế tục, đó là hạnh viễn ly đặc biệt.

5. Vấn đề không hý luận

Trong Kinh Bát Niệm có nói rõ, Tôn Giả Anuruddha tư duy bảy pháp, Ðức phật xuất hiện dạy Tôn Giả tư niệm thêm pháp thứ tám là: "Ðạo do từ không hý luận mà chứng đắc". Vậy vấn đề không hý luận rất quan trọng và siêu việt nếu so với các vấn đề trên. Anuruddha thiền tư không phát hiện đạo lý này, mà nhờ Ðức phật dạy, cho biết giá trị của "không hý luận" rất cao. Không hý luận là gì? Nghĩa đen là không nói chơi hay luận bàn một cách vô ích. Kinh Bát Niệm giảng rằng: "An lạc trú trong vô dư Niết Bàn, tâm thường lạc thú, hoan hỷ,ý giải". H.T. Trí Quang nói rất rõ ý nghĩa của không hý luận:

"Hý luận nghĩa đen là bàn chơi. Hý luận diễn biến từ sự bàn cãi chơi đùa đến sự thảo luận vô ích đến vấn đề đặt sai vấn đề, cuối cùng thì chính là sự thảo luận và đặt vấn đề thực chất đã không như thực. Chính cái nghĩa sau này cho thấy tất cả những cái gì thuộc phạm vi tư duy, mô tả thuộc "Tâm hành xứ" và "Ngôn ngữ đạo" đều là Hý luận. Vậy không hý luận là "Bất tư nghì" là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, đó là cứu cánh hay tự tánh siêu thoát như ở đây nói, là giải thoát Niết Bàn như kinh Ðại Niết Bàn nói, là Không của Bát Nhã nói, là Trung đạo của Trung Luận nói: "Hý luận là ngôn ngữ của tư tưởng, thực chất của tư tưởng là đối chiếu, diễn dịch: Có-không, cũng có cũng không - không phải có, không phải không. Nhưng sự đối chiếu diễn dịch này không ngừng ở đây mà còn tiến xa hơn nữa..." Tư tưởng và ngôn ngữ tư tưởng như vậy gọi là hý luận. Trí tuệ thuộc lãnh vực này gọi là trí tuệ" (Dịch giải kinh Di Giáo - Trí Quang).

Tóm lại vấn đề "không hý luận" là vấn đề cứu cánh siêu việt đúng như kinh Bát niệm giải thích là an lạc trú trong Vô Dư Niết Bàn, tâm thường lạc thú ý giải. Ðó là cứu cánh giải thoát, là nội dung chứng đắc của một vị A La Hán./.



Chương II: Giải Thích Nội Dung Kinh Bát Ðại Nhân Giác

-oOo-


Kinh Bát Ðại Nhân Giác, bố cục thành ba phần:


- Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ.

- Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy.

- Phần ba là phần khuyến khích tu tập theo tám điều giác ngộ ấy, phần này coi như là phần kết thúc của kinh.

Ðể giải thích sát với kinh văn chúng tôi trình bày theo cách thông thường, nghĩa là mỗi Bài gồm phần chánh văn (xem thêm bản chữ Hán ở Phụ lục), dịch nghĩa, giải thích và kết luận.

A. Phần Mở Ðầu

Bài I

I. Chánh Văn

子 Vi Phật đệ tử Là đệ-tử Phật 夜 Thường ư trú dạ Thường thường ngày đêm 念 Chí tâm tụng niệm Dốc lòng tụng niệm 覺 Bát đại nhân giác Tám điều giác-ngộ của bậc đại nhân

II. Dịch Nghĩa

Là đệ tử của Ðức Phật thì ngày cũng như đêm chí thành đọc tụng và quán niệm tám điều giác ngộ của Bậc Ðại Nhân.

III. Giải Thích Nội Dung

Lời mở đầu ngắn gọn và đơn giản, có tính cách giới thiệu chủ đề, không như phần mở đầu của các kinh khác thường có. Ðiều nầy chứng tỏ Ngài An Thế Cao đã trích lục, soạn thảo tám điều giác ngộ, Ngài chủ động giới thiệu để người đọc có thể đi thẳng vào nội dung.

Mặc dù ngắn gọn nhưng tha thiết, vừa nói lên trách nhiệm và bổn phận của người Phật tử vừa chỉ dẫn những điều cụ thể phải thực hành.

Trách nhiệm của người Phật tử là gì? Ở đây không nói là người xuất gia, vậy từ Phật tử chỉ chung cho tại gia và xuất gia. Mang danh con của Phật thì phải thể hiện tính của Phật, đấy là chỗ khác biệt giữa người Phật tử và không là Phật tử; đấy là trách nhiệm của người Phật tử, những biểu hiện ở hành vi và ngôn ngữ cũng như tâm ý của người Phật tử luôn có sự cao thượng, lợi ích và hạnh phúc cho những người xung quanh.

Ðể xứng đáng với danh nghĩa là con của Phật, người Phật tử phải có quá trình tu tập bản thân; không phải tụng kinh, niệm Phật theo thời khóa nhất định mà sự tu tập ấy phải diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, lời mở đầu gọi là Trú Dạ, là ngày cũng như đêm. Như vậy mới đủ năng lực chuyển hóa tính phàm phu của mình.

Tụng niệm không có nghĩa là đứng trước bàn Phật tụng kinh gõ mõ là đủ. Tụng là đọc tụng, còn niệm là an trú tâm vào đối tượng, còn gọi là chánh niệm, là hướng tâm, an trú tâm vào đối tượng, ở đây chính là Tám Ðiều Giác Ngộ của Bậc Ðại Nhân. Do tụng và niệm thường xuyên làm huân tập chủng tử thiện pháp, trí tuệ ngày càng lớn, thân tâm càng thanh tịnh, càng ngày càng gần với tính Phật như vậy xứng đáng là con của Phật.

Bậc Ðại Nhân là người lớn, là người trưởng thành, chỉ cho những người không còn bị sai khiến hay bị chế ngự bởi các phiền não, dục vọng. Theo truyền thống Ðại thừa thì chỉ cho Phật và Bồ Tát, theo truyền thống Nguyên thủy, đó là những vị chứng quả A La Hán hay trên đường chứng quả A La Hán.

IV Kết Luận

Lời mở đầu Kinh Bát Ðại Nhân Giác tuy ngắn gọn nhưng nói lên được mục đích và yêu cầu của một người Phật tử. Dù tại gia hay xuất gia người Phật tử cần phải tu tập quán chiếu ngày đêm các thiện pháp để tăng trưởng công đức và thành tựu cứu cánh Niết Bàn.

Ðiều quan trọng là những gì mà chư Phật, các bậc Thánh hiền đã tu tập, đã thành tựu thì con của Phật phải làm theo, không nhiều thì ít để phần nào xứng đáng với danh xưng Phật tử.



B. Phần Nội Dung Kinh

Bài II

I. Chánh Văn

悟 Đệ nhất giác ngộ Thứ nhất giác-ngộ: 常 Thế gian vô thường Thế gian vô thường 脆 Quốc độ nguy thuý Đất nước mong manh 空 Tứ đại khổ không Bốn đại khổ, không 我 Ngũ ấm vô ngã Năm ấm vô ngã 異 Sanh diệt biến dị Sinh diệt biến đổi 主 Hư nguỵ vô chủ Giả dối không chủ 源 Tâm thị ác nguyên Tâm là nguồn ác 藪 Hình vi tội tẩu Hình (thân) là rừng tội 察 Như thị quán sát Quán sát như thế 死 Tiệm ly sanh tử. Dần thoát sinh tử.

II. Dịch Nghĩa

Ðiều thứ nhất, giác ngộ rằng cuộc đời là vô thường, vũ trụ mong manh tạm bợ. Sự cấu tạo của bốn đại là trống rỗng và có tác dụng gây đau khổ, tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thực và không có chủ thể. Tâm ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi. Quán chiếu như thế dần dần thoát ly sanh tử.


III. Giải Thích Nội Dung

Ðiều giác ngộ thứ nhất, được coi là tu quán Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứ là pháp tu đặc biệt của Phật giáo, là pháp môn quan trọng, là con đường duy nhất dẫn đến Niết Bàn (Ekayana-maggo). Tác dụng của pháp quán này được Ðức Phật dạy rất rõ trong Kinh Niệm Xứ, Trung A Hàm 98:

"Nếu Tỳ Kheo nào trong từng khoảnh khắc lập tâm chánh trụ nơi bốn Niệm Xứ, nếu buổi sáng thực hành như vậy thì buổi tối liền được thăng tấn. Nếu buổi tối thực hành như vậy thì nhất định sáng hôm sau sẽ được thăng tấn" (Trung A Hàm I. T 578). Nội dung của chánh niệm chính là quán niệm về Tứ Niệm Xứ. Vì vậy điều thứ nhất giác ngộ được coi là tương đương với chánh niệm của kinh Bát Niệm, phép quán niệm về bản chất của vũ trụ nhân sinh được đưa vào đầu tiên nhằm củng cố cái nhìn của người Phật tử bằng chánh kiến, là sự nhận thức rõ về sự vật hiện tượng. Quán niệm không phải là cái suy nghĩ hay nhận thức thông thường mà là ý thức về đối tượng, duy trì ý thức ấy trên đối tượng, đồng thời đi sâu vào lòng đối tượng ấy, nhờ đó mà ta có cái nhìn rõ về đối tượng. Kết quả của sự quán chiếu đối tượng như thế là sự hợp nhất giữa chủ thể và đối tượng, ta hiểu đối tượng như chính ta.

Ðối tượng của sự quán chiếu thứ nhất là nhân sinh và vũ trụ:

" Cuộc đời là vô thường. Vũ trụ mong manh tạm bợ".

Quán chiếu về tính cách vô thường của đời sống con người và hoàn cảnh mà con người đang sống làm cho ta thấy rõ bản chất của sự vật. Chúng ta đau khổ vì chúng ta ngu si không thấy rõ tính chất vô thường mong manh tạm bợ của cuộc đời, vì không thấy rõ nên ta tham đắm chấp thủ cuộc đời rằng cái này là ta, là của ta, từ đó phiền não sinh ra: tham, sân, kiêu căng, hoài nghi, sợ sệt ...

* Thân thể là vô thường: Ðây là điều dễ hiểu dễ thấy nhưng ít người chấp nhận một cách sâu sắc, có sinh thì có già, có bệnh và chết. Sự chuyển biến hủy hoại theo thời gian của thân thể là một sự thật khách quan. Sự đau khổ của chúng ta không phải là do tính vô thường của thân thể mà chính là do chấp thủ, tham đắm vào thân thể mà đau khổ phát sinh.

* Tâm lý là vô thường: Tâm của ta không đứng yên một chỗ mà là chuyển biến liên tục như dòng nước chảy xiết buồn, vui, thương, ghét, giận, lo lắng, những quan điểm, khái niệm đúng, sai, tốt, xấu thay đổi không ngừng nhấp nhô như sóng biển bất tận, vui đó rồi buồn đó, thương rồi giận... không ai làm chủ được tâm lý của mình.

* Tình cảm là vô thường: Tình thương của cha mẹ đối với con cái, vợ đối với chồng, anh em, bạn bè, quê hương đất nước... không có gì là chắc chắn bền bỉ. Tình yêu rồi thù hận, trung thành rồi phản bội, thương nhau lắm cắn nhau đau...

* Tài sản tiền bạc là vô thường: Có rồi không, được rồi mất, giàu rồi nghèo, hết sức mong manh tạm bợ, dễ bị lửa cháy, nước trôi, nhà nước tịch thu, trộm cướp và con cái phá tán.

* Danh vọng địa vị là vô thường: Công danh sự nghiệp chức tước địa vị thăng giáng vô thường, vinh quang rồi tủi nhục, kính trọng hay khinh bỉ không có gì tồn tại mãi.

* Hoàn cảnh vô thường: Hoàn cảnh xã hội, đường lối sách lược luôn luôn thay đổi, đất lở, sông bồi, núi non hay biển cả, mây gió trăng sao đều luôn luôn chuyển biến "thương hải biến vi tang điền" là điều thường thấy.

Tất cả đều nằm trong qui luật : vô thường, hoại diệt. Quán chiếu về tính chất vô thường của vũ trụ nhân sinh không nhằm mục đích đưa đến thái độ bi quan yếm thế mà chính là hướng dẫn ta có cái nhìn chính xác về sự thật của đời sống. Nhờ có cái nhìn rõ ràng và sáng suốt như vậy mà ta được an ổn, trầm tĩnh, không ưu tư sầu muộn, đau khổ về đời sống, ta đạt được giải thoát, tự do. Trong kinh Pháp Cú, Ðức Phật dạy:

"Hãy nhìn như bọt nước Hãy nhìn như huyễn cảnh Quán nhìn đời như vậy Thần chết không bắt gặp"

Ðối tượng quán chiếu tiếp theo là bốn đại và năm uẩn để thấy được tính chất vô ngã của chúng, nghĩa là thấy được sự trống rỗng không có chủ thể của bốn đại và năm uẩn.

Bốn đại là bốn nguyên tố vật chất theo quan điểm triết học Ấn Ðộ cổ đại tất cả hình thể vật chất đều do sự cấu thành của bốn nguyên tố nầy. Nhưng khi diễn tả sự cấu thành thân thể con người, đạo Phật không dừng ở đó mà thêm hai nguyên tố nữa là không đại và thức đại.

Năm uẩn là năm nhóm tạo thành con người gồm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là thân thể bao gồm bốn đại ở trên; thọ là nhóm cảm giác; tưởng là nhóm tri giác; hành là nhóm động lực tâm lý và thức là nhóm nhận thức. Nói một cách tổng quát thì con người do bốn đại và năm uẩn cấu thành, ngoài bốn đại và năm uẩn không có cái gì gọi là con người cả.

Quán chiếu về bốn đại tức là bốn yếu tố vật chất để thấy rõ bản chất trống rỗng của chúng. Cần chú ý là vật chất ở đây chỉ cho thân thể của ta. Thân ta nếu phân tích sẽ thấy nó gồm có đại địa, tức xương thịt, các chất rắn; Thủy đại tức nước tiểu, mồ hôi, nước mắt nói chung là chất lỏng; Hỏa đại là hơi ấm, nhiệt độ thân thể, còn nhiệt độ là còn sống; Phong đại là thể khí như không khí để thở, khoảng không chứa đựng các loại khí...

Nếu bốn yếu tố nầy đầy đủ điều hoà thì thân thể ta khỏe mạnh, nếu một trong bốn yếu tố mất thăng bằng thì thân thể bị bệnh hoặc khó chịu ngay. Bản chất của chúng là không có tự tính, chúng phải dựa vào nhau mà tồn tại hay nói cách khác chúng tồn tại do duyên sinh. Vì vậy không có gì là chắc chắn bảo đảm, chúng vô thường. Thân thể chúng ta là vô thường như phép quán đầu tiên, chúng vô thường vì chúng trống rỗng, nghĩa là vô ngã. Chúng vô ngã vì chúng tồn tại có điều kiện. Ðó là qui luật của thực tại.

Vì vậy kinh văn nói: "Sự cấu tạo của bốn đại là trống rỗng". Sự vô thường, vô ngã của bốn đại là qui luật khách quan, nhưng tại sao trong kinh văn cho là "khổ"? Thực ra cái khổ không do vô thường hay vô ngã của thân thể mà do nhận thức chấp thủ rằng thân thể là thường, là ngã, là tôi, là của tôi mà sinh ra cái khổ, nên kinh văn (được) dịch là "có tác dụng gây ra đau khổ". Vậy đau khổ ở đây là do không quán chiếu để thấy rõ bản chất của thân thể (hay của bốn đại) là "vô ngã" mà chấp vào nó nên "khổ".

Quán chiếu về bốn đại tức là quán chiếu về yếu tố sắc uẩn trong năm uẩn. Tiếp tục quán chiếu về bản chất của con người chính ta, bằng cách soi chiếu sâu sắc vào năm uẩn, về mặt tinh thần, tâm lý thì được chia thành bốn nhóm:

1. Nhóm cảm giác (Vedanà): Là thọ hay cảm thọ. Nhìn sâu vào nhóm cảm thọ ta sẽ nhận diện bộ mặt thật của chúng; chúng sinh trưởng và hoại diệt như thế nào? Cảm thọ có nhiều loại, khái quát có ba loại chính: Cảm thọ khổ, cảm thọ vui sướng, cảm thọ trung tính (không khổ, không vui). Một cảm giác sinh khởi nó tùy thuộc các điều kiện nhân duyên. Nó không tự tồn tại và không có giá trị lâu bền. Một cảm giác dễ chịu thoải mái do đâu mà sinh? Nguồn gốc của nó có thể từ vật chất như ta có một món tiền lớùn hay một bữa ăn ngon chẳng hạn. Nguồn gốc của nó có thể từ tâm lý như khi ta thương yêu hay thưởng thức một bài thơ hay, ta khoan khoái dễ chịu. Quán chiếu sâu hơn ta thấy các cảm thọ còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố như không gian, thời gian, trình độ văn hóa, thời tiết, điều kiện xã hội.... rõ ràng là cái cảm giác buồn hay vui chứa đựng cả một bầu trời duyên sinh chỉ cần thiếu đi một yếu tố, chi tiết nào đó cảm thọ vui sẽ giảm hoặc mất đi. Vậy ở trong cảm thọ cái gì là cái ta, cái của ta? Chúng không thực và không có chủ thể.

2. Nhóm tri giác (Tưởng - sannakhandha): Chúng là sự nhận thức, sự cấu thành khái niệm về đối tượng là vật lý hay tâm lý. Ðây là nhóm nhận thức sau khi các giác quan tiếp xúc với ngoại cảnh; nó thu nhận đối tượng và biểu tượng hóa cái đối tượng của giác quan. Tưởng thiết lập cơ sở các dữ liệu cho nhận thức lý luận, cho sự nhận thức sâu hơn về thế giới vật lý hay tâm linh.

Nhóm tri giác có sáu loại tượng ưng với sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng mà sanh nhận thức về các đối tượng ấy.

Cũng như Thọ (cảm giác), nhóm Tưởng đòi hỏi và tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhiều điệu kiện nhân duyên, sự cấu thành nhận thức, khái niệm về sự vật là như thế nào; tùy thuộc vào yếu tố không gian, thời gian, thời tiết, điều kiện văn hóa, xã hội ... ở trong chúng không có cái gì gọi là bền vững hay riêng lẻ.

3. Nhóm tạo tác tâm lý (Hành - sankhàra): Hành là quá trình tạo tác tâm lý, một loại ý định,chủ tâm. Thực ra thọ hay tưởng đều thuộc về hành nhưng thọ và tưởng không tạo tác kết quả nghiệp nên được tách riêng. Hành mới có tác dụng tạo nghiệp đưa đến thiện, ác và tái sanh.

Những hiện tượng tâm lý gọi chung là tâm hành, Duy thức học gọi là tâm sở -- cảm giác và tri giác không phải là những hoạt động ý chí nên không bao gồm trong hành uẩn. Hành uẩn gồm những tâm lý phát sinh động lực và tạo tác dụng thúc đẩy năng lực đi tới như tham dục, sân hận, hãm hại hoặc ước muốn, tin tưởng, tinh tấn ... Những hoạt động tâm lý thuộc hành uẩn diễn ra khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng giác quan.Ví dụ khi mắt thấy sắc đẹp sinh ra tham muốn, sự vướng mắc vào đối tượng tham đắm hay giận hờn, nó tùy thuộc rất nhiều điều kiện khác nhau, nói cách khác nó cũng do duyên sinh không có yếu tố tạo tác tâm lý nào là cố định, tự phát. Chúng tùy thuộc vào nhân duyên mà sinh và nhân duyên mà diệt.

4. Nhóm Thức (Vinnàna): Thức là một phản ứng căn bản khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, gồm sáu loại: Nhãn thức, nhĩ thức,tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Về sau, Ðại thừa duy thức triển khai thêm hai thức nữa là Mạt na thức và A lại gia thức, gọi một cách tổng quát là tâm vương. Cần phân biệt thức uẩn và tưởng uẩn.

- Thức thì nhận biết đối tượng - sự hiện diện của đối tượng. Ví dụ khi mắt thấy sắc, thức nhận thức về sự hiện của một đối tượng như bông hoa chẳng hạn.

- Còn tưởng là tri giác sẽ nhận ra đấy là hoa hồng hay hoa lài, màu đỏ hay màu trắng.

Thức, theo Phật giáo, không phải là một linh hồn tồn tại độc lập,

Ðức Phật dạy: "Thức được gọi tên tùy theo điều kiện nhờ đó mà đó sinh khởi: Nhờ con mắt và đối tượng con mắt mà thức phát sinh, gọi là nhãn thức ... Thức tồn tại nhờ sắc ...nhờ thọ ... nhờ hành ..." Như vậy thức không tồn tại độc lập và không có cái ngã trong thức.

Tóm lại quán chiếu để thấy rõ bốn đại và năm uẩn là trống rỗng, là vô ngã, là duyên sinh. Nhờ thấy rõ bản chất của chúng mà đoạn trừ được tham ái và chấp thủ vào chúng. Khi đã buông xả ý niệm về thân tôi, về tôi, về tự ngã của tôi thì mọi ảo tưởng về thân sẽ tan biến gọi là đoạn trừ thân kiến, bước đầu của bậc Kiến đạo.

Ðối tượng quán chiếu thứ ba là khía cạnh bất thiện của thân và tâm, cũng có nghĩa phải thấy rõ mặt tiêu cực, nguy hiểm của thân và tâm để mà đề phòng, hạn chế xu hướng phát triển của chúng.

Kinh văn dạy: "Phải quán chiếu tâm ta là cội nguồn phát sinh điều ác, thân ta là nơi tích tụ tội lỗi". Trước hết cần xác định rằng: Ðiều ác, điều bất thiện là do tâm tạo tác chứ không phải từ bên ngoài phát sinh, đây là lập trường căn bản của giáo lý về nghiệp.

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật dạy:

"Trong các pháp tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả.

Nếu đem tâm nhiễm ô để nói năng hay hành động thì kết quả đau khổ đi theo như bánh xe lăn theo con vật kéo xe...

Nếu đem tâm thanh tịnh để nói năng hay hành động thì kết quả hạnh phúc đi theo như bóng theo hình".

Thiện, ác, đau khổ hay hạnh phúc đều xuất phát từ tâm ý. Tuy nhiên ở đây kinh chỉ đề cập đến khía cạnh bất thiện, đau khổ mà thôi. Từ những nhận thức sai lầm dẫn đến các tâm lý bất thiện tham, sân, si, mạn, nghi, tạo thành động lực cho ác nghiệp. Cũng cần phải thấy rõ sức mạnh của nghiệp bất thiện nó có mặt từ quá khứ, tức là nhiều đời kiếp về trước nên khó đoạn trừ, đừng chủ quan, hời hợt và coi thường chúng; có quán chiếu sâu sắc mới thấy những tiềm ẩn vi tế, gốc gác sâu xa của chúng.

Thân thể là nơi tích tụ tội lỗi, đây cũng là quán chiếu để thấy rõ mặt tiêu cực của thân. Thân vật lý nó có những quy luật tồn tại riêng của chúng; chúng có những nhu cầu (tồn tại ) sinh tồn. Những đòi hỏi thỏa mãn nếu ta không nhận ra đâu là nhu cầu thực và chính đáng, đâu là nhu cầu giả tạo không cần thiết của thân thì rõ ràng ta bị thân lôi cuốn vào tội lỗi. Phần lớn những tội lỗi sinh ra do thân làm động cơ, làm điều kiện; tất cả những nhu cầu ăn, mặc thỏa mãn sinh lý, những lạc thú đều từ thân, do thân. Vì vậy, không nên coi thân là quan trọng mà phải thấy rõ chúng đề sử dụng chúng như là phương tiện tu tập và hành đạo.

IV. Kết Luận

Ðiều giác ngộ thứ nhất là quán chiếu để thấy rõ pháp ấn: Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, ở nơi thân tâm của con người với mục đích bỏ những vướng mắc tham đắm, chấp thủ đối với con người và cuộc đời. Duy trì sự quán chiếu ấy trên đối tượng thân, tâm, hoàn cảnh của mình; mình sẽ có thái độ ứng xử thích hợp với chân lý. Ðây không phải là lối nhìn bôi đen đời sống, là lối nhìn tiêu cực, mà chính là cách nhìn của tuệ nhãn đầy tích cực, nó có tác dụng mang lại sinh lực cho chúng ta. Con người đau khổ mất mát sinh lực chính là do nhìn đời ngược lại. Thành tựu các "niệm xứ" như kinh đã dạy, tức là bước vào Thánh đạo, không có con đường nào khác. Nhãn quan của đạo Phật về cuộc đời quá rõ như kinh Kim cương dạy:

Nhứt thiết hữu vi pháp Như" mộng huyễn bào ảnh Như lộ diệc như điện Ưng tác như thị quán".


Bài III

I. Chánh Văn

知 Đệ nhị giác tri Thứ hai giác-ngộ: 苦 Đa dục vi khổ Muốn nhiều là khổ 勞 Sinh tử bì lao Sống Chết nhọc nhằn Tùng tham dục khởi Từ tham dục khởi 爲 Thiểu dục vô vi Ít muốn vô vi 在 Thân tâm tự tại. Thân tâm tự tại.

II. Dịch Nghĩa

Ðiều thứ hai giác ngộ rằng ham muốn nhiều thì đau khổ nhiều. Những nỗi khốn khổ trong cõi sanh tử đều do tham dục mà sanh. Người ít ham muốn, không tạo tác (nghiệp bất thiện) nên thân tâm được tự tại.

III. Giải Thích Nội Dung

Ðiều giác ngộ thứ hai nói về nguồn gốc đau khổ là do tham dục. Tham nhiều thì khổ nhiều, người ít tham dục thì không bôn ba tìm kiếm, không tạo nghiệp bất thiện, không bị các đối tượng của dục hay ngoại duyên chi phối nên được thảnh thơi, thoải mái, an vui.

Ðiều này nói lên một chân lý: Khổ và điều kiện sanh ra khổ, đó là lòng ham muốn nhiều của con người. Cái khổ do tham là một kinh nghiệm thực tế mà ai cũng kinh qua. Các đối tượng để mình tham muốn có năm loại tiêu biểu: Tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, hay nói cách khác, sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm vị ngon, xúc chạm êm dịu. Tại sao tham muốn các đối tượng nầy là khổ? Thực ra, khi ta tham muốn các đối tượng ấy là ta sướng chứ không phải khổ, khổ không bao giờ là đối tượng mong cầu của ai cả. Khổ có nhiều phương diện:

1. Khổ về cảm thọ hay cảm giác: sung sướng, hạnh phúc là một cảm giác mà Phật học gọi là lạc thọ, ngược lại đau khổ cũng là một cảm giác gọi là khổ thọ. Cả hai loại cảm thọ này thường đi đôi với nhau, đôi khi chúng làm điều kiện cho nhau: " cái này có nên cái kia có" vui quá thì sẽ buồn quá " trèo cao té nặng" ... Cảm giác hạnh phúc và khổ đau là bản chất của tham dục. Khi một đối tượng thích ý có mặt nó đem đến cho ta khoái cảm, nhưng khi đối tượng ấy thay đổi, không có mặt nữa nó đem đến cho ta đau khổ, cũng như có thương nên mới có hận, nếu không thương thì làm gì có thù hận!

Trong Kinh Ðại Khổ Uẩn (Trung Bộ Kinh I), Ðức Phật dạy:

"Bản chất của dục có ba khía cạnh, mà người tu hành cần phải biết rõ:

Vị ngọt của dục, vị đắng của dục và sự giải thoát khỏi chúng".

Vị ngọt của dục: Các đối tượng tham dục đem đến cho con người khoái lạc, sung sướng, thích thú. Vì vậy ai cũng mong cầu tham đắm chúng, những lạc thú này thỏa mãn cảm giác lạc thọ của các giác quan và bản năng hưởng thụ của con người, làm cho cuộc sống của con người trở nên thú vị, có ý nghĩa hơn. Sự hấp dẫn của chúng không dễ thấy được một cách sâu sắc.

Có một chuyện ngụ ngôn Phật giáo kể rằng: " Có một người tử tù vượt ngục, bị các con voi của vua rượt đuổi phía sau. Trong cơn nguy kịch, anh ta bị rơi xuống một cái giếng sâu, may thay anh ta nắm được một sợi dây leo khá chắc. Các con voi đã đến và gầm thét trên miệng giếng. Anh nhìn quanh giếng thấy có ba con rồng đang há miệng chờ, bốn góc giếng có bốn con rắn độc đang lăm le chực mổ, nguy hơn nữa là có hai con chuột đang gặm nhấm hai đầu sợi dây leo mà anh đang bám vào, tình thế tuyệt vọng. Trong lúc ấy có một bầy ong bay ngang qua, anh ta ngước cổ há miệĩng nhìn, bầy ong tình cờ làm rơi xuống năm giọt mật ngay miệng anh. "Ôi! giọt mật ngọt làm sao!" Anh thốt lên. Trong phút chốc anh ta quên mất sự khốn cùng của mình". Năm giọt mật ấy dụ cho năm dục, nó tạo nên lạc thú cho con người. Nói chung những gì đem đến hỷ và lạc đó là vị ngọt của ngũ dục.

Cảm thọ lạc thú có một tính chất nữa là rất chóng tàn. Khi lạc thọ đã qua đi sẽ để lại tâm hồn ta một nỗi trống trải, lạc lõng, nó hình thành một nhu cầu, thúc đẩy tái tạo lạc thọ ấy và chúng ta lên đường tìm kiếm. Nhưng những lạc thọ đã kinh nghiệm không còn hấp dẫn nữa, không còn "lạc" nữa, phải tìm kiếm lạc thú mới, nghĩa là lạc thú có cường độ cao hơn... cứ thế mà tiếp diễn, rồi nỗi khổ xuất hiện...

2. Khổ vì đấu tranh: Ðể đạt được các đối tượng lạc thú không phải dễ dàng, phải có sự mưu tính, nỗ lực, phải tranh đấu, phải hy sinh... mới có được.

Trong kinh Ðại Khổ Uẩn Phật dạy: Vị đắng của dục hay sự nguy hiểm của tham dục cần phải hiểu rõ rằng:

- Ðể có các đối tượng tham dục, để thỏa mãn nhu cầu của tham dục, con người phải nỗ lực tìm kiếm chúng, phải đầu tắt mặt tối, phải vất vả, phải hy sinh... may ra mới có được những gì mình muốn.

- Những người vất vả như vậy mà vẫn hai bàn tay trắng không có kết quả gì, thất vọng buồn phiền.

- Có những nguời may mắn hơn, có được những gì mình muốn nhưng phải lo giữ gìn, sợ hãi sẽ mất mát, hao mòn.

- Do mình có tài sản hay mình muốn tài sản, lạc thú mà cha con tranh chấp, vợ chồng chia tay, bạn bè hãm hại, anh em kiện cáo nhau, dối trá lường gạt, hãm hại... xảy ra.

- Do tham dục mà xóm làng, băng đảng, quốc gia... gây chiến tranh đổ máu, chết chóc... xảy ra cục bộ hay toàn diện.

Do tham dục mà con người sống như cầm thú, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, ác nghiệp...

Do vậy chết trong đau khổ, đọa vào đoạ xứ, địa ngục...

Ðó là ý nghĩa của kinh văn: "Những nỗi khốn khổ trong cõi sinh tử đều do tham dục mà sanh".

Người ít dục, ít ham muốn lạc thú thì ít khốn khổ hơn, được thanh thản thoải mái hơn như trong Kinh Ðại Khổ Uẩn (sđđ), Ðức Phật dạy là sự xuất ly khỏi dục.

Trước hết, do nhận thức rõ vị ngọt và sự nguy hiểm của dục nên sự hấp dẫn của chúng không đủ lực để cuốn hút, chi phối ta nữa. Sau đó trong quá trình quán chiếu tu tập sự an lạc của thiền hay của pháp sanh khởi, chuyển hướng tư duy của ta và chuyển hóa bản năng hưởng thụ dục lạc. Nhờ đó, ta xuất ly khỏi tầm ảnh hưởng của dục. Ðó gọi là thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại.

IV. Kết Luận

Ham cầu nhiều thì vất vả,khổ sở nhiều; đó là quy luật, đó là con đường phàm phu ngu muội. Con người cứ tưởng rằng họ đạt được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là họ thỏa mãn, họ có hạnh phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì nhiều. Cuối cùng con người cũng nhận ra chân lý đơn giản này khi họ buộc phải từ bỏ tất cả, như khi chết chẳng hạn...

Nỗi đau khổ của cuộc đời giống như nồi nước đang sôi, ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục, ngọn lửa càng lớn, nước càng sôi và càng cạn kiệt,ngọn lửa càng yếu thì nước sôi sẽ bớt nhiệt độ và hết sôi.Cũng vậy, ngọn lửa tham dục bớt đi thì đau khổ sẽ giảm, giảm mãi hằng ngày đến lúc không còn gì để giảm nữa (vô vi) thì sự giải thoát tối hậu được thành tựu.







Bài IV

I. Chánh Văn

知 Đệ tam giác tri Thứ ba giác-ngộ:: 足 Tâm vô yểm túc Tâm không chán đủ 求 Duy đắc đa cầu Chỉ tham cầu nhiều 惡 Tăng trưởng tội ác Tăngthêm tội ác 爾 Bồ tát bất nhĩ Bồ tát không thế 足 Thường niệm tri túc Thường niệm “tri-túc” 道 An bần thủ đạo An bần giữ đạo 業 Duy tuệ thị nghiệp Tuệ là sự-nghiệp.

II. Dịch Nghĩa

Ðiều thứ ba giác ngộ rằng tâm ta không bao giờ biết chán đối với dục lạc, luôn muốn dược nhiều, vì vậy tội ác tăng trưởng. Bậc Bồ Tát thì không như vậy, họ luôn nghĩ đến sự biết đủ, sống an vui thanh đạm để hành đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của mình.

III. Giải Thích Nội Dung

1. Như đã trình bày ở Bài trước, dục lạc có vị ngọt, sự hấp dẫn nhưng đồng thời nó cũng có vị đắng, sự nguy hiểm. Sự nguy hiểm ấy chính là không bao giờ thỏa mãn. Vì vậy, không bao giờ người ta biết dừng lại đối với các lạc thú thế tục. Con người luôn tìm kiếm lạc thú, những kích thích mới; nó đẩy con người đi về phía trước một cách mù quáng giống như những con thiêu thân lao vào ánh lửa. Một người đã bị một lạc thú nào đó hấp dẫn, trở thành mục tiêu hay lý tưởng của đời mình, như đối tượng là tiền bạc chẳng hạn, thì lòng họ không bao giờ biết đủ hoặc biết dừng lại. Lòng tham của họ sẽ là "vô đáy", như một guồng máy đã khởi động là không ngừng quay cho đến khi nào bị hư hay hết nhiên liệu, đây là một thực tế tâm lý. Vì vậy tội ác ngày càng nhiều do phải chiếm đoạt cho được mục đích vô tận ấy.

Xu hướng tìm kiếm lạc thú là xu hướng chung của loài người, các loài động vật cũng vậy, đó là bản năng thụ hưởng. Hạnh phúc là từ ngữ văn vẽ của từ lạc thú; hạnh phúc là mục tiêu của đời sống con người. Những quan niệm về hạnh phúc thông thường là chiếm hữu càng nhiều càng tốt các đối tượng dục lạc, thỏa mãn nhu cầu lạc thú của các giác quan mà trong kinh gọi là dục lạc, phàm phu lạc. Vì nhu cầu hưởng thụ là bản năng nên nó không tự dừng lại được. Có người đọc câu "Nghĩ đến thân thể đừng cầu không tật bệnh. Vì không tật bệnh thì tham dục dễ sanh", ở trong luận Bảo Vương Tam Muội, người ấy cho rằng đối trị tham dục bằng cách cứ để cho tật bệnh rề rề như vậy không cần chữa chạy dứt điểm. Họ quên rằng dù bệnh nặng tham dục vẫn tồn tại, chẳng qua "lực bất tòng tâm" mà thôi.

Làm sao dừng lại được lòng tham dục? Phải nỗ lực tu tập, phải "rèn luyện" mà thôi.

Kinh Trung Bộ đưa ra công thức: "Nhàm chán đưa đến ly tham, ly tham đưa đến đoạn diệt, đoạn diệt đưa đến Niết Bàn". Vậy để dừng lại tham dục phải có thái độ nhàm chán. Bằng cách nào để được nhàm chán? Ðể giải quyết vấn đề, Ðạo Phật đưa ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Do vậy, có người cho rằng Ðạo Phật là đạo diệt dục, khô khan. Ðạo Phật chủ trương diệt dục nhưng dục ở đây là tham dục, dục vọng vị kỷ không phải dục hướng thượng, thiện dục hay pháp dục. Vấn đề nhàm chán trước hết tùy thuộc vào năng lực quán chiếu, thấy rõ bản chất của dục, sự nguy hiểm và không đáng kể về giá trị của chúng, một số phương pháp cụ thể được đưa ra ở trong kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc, An Trú Tầm... nhờ quán thấy rõ mà đoạn trừ mầm móng tư duy bất thiện: Dục, sân, si. Sau đó là sự gần gũi, tu tập trong chánh pháp phát triển xu hướng ngược lại của thói thường như trong kinh văn gọi là "Thường niệm tri túc".

2.Vì biết rõ sự nguy hiểm của dục lạc và lòng ham muốn vô tận là cội nguồn sanh tử nên các bậc Bồ tát không nghĩ, không làm theo thói thường của phàm phu mà làm ngược lại. Bồ Tát là chữ viết tắt của Bồ Ðề Tát Ðỏa (Bodhisattva). Nghĩa là chúng sanh giác ngộ (Bodhi: sự giác ngộ, trí tuệ, Sattva: chúng sanh). Người giác ngộ gọi là Bồ tát (Hữu tình giác) và làm cho chúng sanh giác ngộ gọi là Bồ tát (Giác hữu tình). Bồ tát là người giác ngộ nên thấy rõ qui luật của hạnh phúc và khổ đau rằng tham muốn nhiều thì tội ác tăng trưởng, khổ đau có mặt; ít ham muốn, biết đủ thì trí tuệ tăng trưởng, hạnh phúc có mặt...

Người biết đủ là biết hài lòng với những gì mình có được, đó là hạnh phúc và giàu có nhất trên cõi đời nầy. Người giàu có là người thỏa mãn sung sướng. Ngược lại người nghèo là người luôn thiếu thốn, khao khát, người không biết đủ luôn luôn thiếu thốn khao khát, luôn tìm kiếm nên họ là người nghèo, cho dù tài sản của họ nhiều đến đâu đi nữa. Giàu hay nghèo, thiếu hay đủ, chỉ trong một ý niệm mà thôi.

Trong kinh Di Giáo Phật dạy: "Tri túc giả tuy ngọa địa thượng do vi lạc, bất tri túc giả tuy xử thiên đường diệc bất xứng ý" (Người biết đủ dù nằm ở trên đất cũng thấy an lạc, còn người không biết đủ dù được ở thiên đường cũng không vừa ý).

- Người giác ngộ (Bồ tát) hay là người Phật tử không có nghĩa là người hoàn toàn vô dục, vô cầu. Vô dục,vô cầu là đối với dục lạc phàm phu vị kỷ, tác hại đưa đến đau khổ.Người Phật tử hướng tâm mong cầu của mình về tha nhân và về pháp mà kinh Trung Bộ gọi là Thánh cầu (Dhamma-chanda) kinh văn nầy gọi là Duy Tuệ Thị Nghiệp.

Kinh Thánh Cầu, Phật dạy: "Cầu cái không sanh, không già, không bệnh, không chết, không sầu, không ô nhiễm". Ðó là sự mong cầu của Bồ tát hay của các bậc Thánh nhân, các đệ tử của Ðức Phật.

- Tại sao tu hành là: "An bần thủ đạo"? Phải chăng đạo Phật muốn bần cùng hóa xã hội nhân sinh? Dĩ nhiên là không. Mục tiêu của đạo Phật là đời sống an lạc và hạnh phúc chân thật chứ không phải là đời sống giàu hay nghèo. Chấp thủ vào, bám víu vào những cái gì mà bản chất chúng là vô thường, vô ngã thì chắc chắn sẽ gặt hái khổ đau. Lòng tham là đầu mối của các bám víu, vướng mắc như vậy, cho nên rũ bỏ đi lòng tham vô độ thì đời sống của ta và của người mới nhẹ nhàng, thanh thản, mới có hạnh phúc. Vậy một người nghèo mà tham đắm nhiều thì sẽ khổ vô cùng, còn một người giàu mà ít tham đắm thì vẫn hạnh phúc, thanh thản như thường.

- Mặt khác sống đạm bạc để hành đạo dễ hơn là sống với nhu cầu hưởng thụ cao."Giàu sang học đạo là khó" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Thật vậy, khi mình có quá nhiều nhu cầu không chán thì phải hướng tâm tìm kiếm, phải đầu tư ý chí, tình cảm, sức khỏe, trí khôn và thời gian để đạt được những gì mình cầu mong. Như vậy, con người ta bị nô lệ cho dục vọng, bị cuốn hút vào hướng đi và mục tiêu vô bổ. Trái lại, biết tri túc an phận thanh bần để có thì giờ, sức lực, ý chí làm giàu đời sống tâm linh, đời sống trí tuệ. Hướng đời mình vào hướng đi thánh thiện và siêu thoát, chỉ có trí tuệ mới đáp ứng cho nhu cầu và hướng đi ấy nên gọi là Duy Tuệ Thị Nghiệp.

IV.Kết Luận

Có hai con đường mà ta phải chọn lựa: Một là lao đầu vào đời sống thế tục tìm kiếm lạc thú và đương nhiên hưởng thụ cả đau khổ, con đường đó được làm bằng dục vọng và tội lỗi. Hai là con đường xuất thế siêu thoát lên trên mọi cám dỗ dục lạc, thành tựu những an lạc siêu thế, chấm dứt khổ đau, con đường nầy được làm bằng tri túc và trí tuệ, đấy là con đường của đệ tử xuất gia, của người tu sĩ Phật giáo, đây là con đường của người cư sĩ thực hành Bồ tát hạnh.




14 lượt xem0 bình luận

Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Comments


bottom of page