top of page
thichchanthuc10201

KINH DI GIÁO Online

KINH DI GIÁO


Hán-dịch: Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập đời Diêu-Tần.

Việt-dịch: Thích-Tâm-Châu

http://www.tuvien.com/kinh_dien/index.php?id=datas2/297kinhdigiao

---o0o---


NGHI THỨC KHAI KINH

(tụng niệm trước để tâm thức được an tịnh trước khi đi vào tụng đọc Kinh văn)


NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đốt hương trầm, đứng ngay ngắn chắp tay ngang ngực thầm niệm theo nghi thức dưới đây.)


TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN:

Án lam tóa ha.(3 lần)


TỊNH TAM NGHIỆP CHÂN NGÔN:

Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ,

đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám.(3 lần) (Chủ lễ thắp 3 cây hương, quỳ ngay ngắn nâng hương lên ngang trán niệm bài Cúng hương sau đây.)


CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT


Nguyện thử diệu hương vân, Biến mãn thập phương giới. Cúng dường nhất thiết Phật, Tôn Pháp, chư Bồ Tát, Vô biên Thanh văn chúng, Cập nhất thiết thánh hiền. Duyên khởi quang minh đài, Xứng tánh tác Phật sự. Phổ huân chư chúng sanh, Giai phát Bồ-đề tâm, Viễn ly chư vọng nghiệp, Viên thành vô thượng đạo.

(Chủ lễ xá 3 xá rồi đọc bài Kỳ nguyện dưới đây.)


CẦU NGUYỆN

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Hôm nay chúng con tưởng niệm ngày Đức Thích-Tôn Nhập Niết Bàn, để hóa độ chúng sanh. Chúng con một dạ chí thành, cúng dường kỷ-niệm. Kính dâng một nén tâm hương, ba nghiệp tinh cần, cúi đầu đảnh lễ, nguyện y lời Phật dạy, tụng kinh niệm Phật chuyên cần, quyết theo Phật Pháp làm lành, báo đền công ơn hóa độ, Tâm Bồ Đề kiên cố, chí tu học vững bền, xa bể khổ nguồn mê, cùng pháp giới chúng sanh, nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành viên mãn, mau chứng quả Vô Thượng Bồ-Đề. Ngưỡng mong Phật tổ cao vời, từ-bi gia hộ.

Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (o)

TÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài.

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận. (o)


QUÁN TƯỞNG PHẬT


Phật, chúng-sanh: tánh thường rỗng lặng.

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời

Trước bảo tòa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.(o)

ĐẢNH LỄ


Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (1 lạy) O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ-tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy) O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A-Di-Đà Phật, Đại Bi Quán Thế AÂm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ-tát. (1 lạy) OO

TRÌ TỤNG

(Đại chúng ngồi thẳng lưng theo tư thế hoa sen. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ .

Từ đây chủ lễ xướng và đại chúng cùng tụng theo)


TÁN LƯ HƯƠNG

Kim lư vừa bén chiên đàn, Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương, Hiện thành mây báu kiết tường, Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền, Pháp thân toàn thể hiện tiền, Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho. Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần) O

CHÚ ĐẠI BI


Nam-mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thơcs bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da dế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết, tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

VĂN PHÁT NGUYỆN


Nam-mô Thập-phương Thường-trụ Tam-Bảo (3 lần)

Cúi lạy đấng Tam-giới Tôn,

Quy mạng cùng mười phương Phật

Con nay phát nguyện rộng

Thọ trì kinh Di Giáo

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ Tam-đồ ( súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục )

Nếu có kẻ thấy nghe

Đều phát lòng Bồ-đề

Hết một báo thân này

Sanh qua cõi Cực-Lạc.

Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)



BÀI KỆ KHAI KINH


Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu

Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu

Con nay thấy nghe trì tụng

Nguyện hiểu Như-Lai nghĩa thật sâu.


Nam-mô Khai Pháp-Tạng Bồ-tát(3)

KINH DI GIÁO

(Đời Hậu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập vâng chiếu dịch)


1- KINH-TỰ

Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la. Những người nên độ, Ngài đã độ xong. Ngài nghỉ ở giữa hai cây Sa-la và sắp nhập niết-bàn. Khi ấy, vào khoảng nửa đêm, vẳng lặng không có tiếng động Ngài vì các đệ-tử, nói qua về các giáo-pháp quan-yếu.


2- TRÌ GIỚI

Các vị Tỳ-Khưu, sau khi Tôi nhập-diệt, các vị nên tôn-trọng và trân-kính Ba-La-Đề-Mộc-Xoa, như tối gặp sáng, như người nghèo được của báu. Các vị nên biết giới ấy là bậc Đại-Sư của các vị và, không khác gì Tôi còn ở đời vậy. Người giữ giới thanh-tịnh, không được làm những việc như:

- buôn bán, đổi chác, tạo dựng ruộng nhà, nuôi dưỡng người dân, tôi tớ, súc sinh.

- Hết thảy sự trồng trọt, các của cải châu báu, đều nên tránh xa, như tránh hầm lửa.

- Không được chặt phát cây cỏ, đào sới đất đai, điều-hòa thuốc thang, xem tướng tốt, xấu quan sát tinh-tú, suy-đoán đủ, thiếu, lịch-số kế-toán, đều không nên làm.

- Giữ thân tiết-độ, ăn uống đúng thời, sinh hoạt nơi mình một cách thanh-tịnh.

- Không được tham-dự việc đời, sứ-mệnh liên-lạc, chú-thuật thuốc tiên, kết thân với người sang, thân cận đậm-đà với những người nhàm-nhỡ, kiêu-mạn, đều không nên làm.

Các vị nên tự giữ tâm ngay thẳng, suy-niệm chân-chính, để cầu độ thoát. Các vị không được che dấu vết nhơ, bày trò khác lạ, để mê-hoặc quần-chúng.

Đối với bốn sự cúng-dường, lượng biết tri túc. Được đồ cúng-dường, không nên cất chứa. Đó là nói qua về tướng trì giới.

Giới là căn-bản chân-chính thuận theo đường giải-thoát, nên gọi là “ba-la-đề-mộc-xoa”. Nhân y vào giới này được sinh ra các thiền-định và trí-tuệ diệt khổ.

Thế nên, các vị Tỳ-Khưu nên giữ giới thanh-tịnh, đừng để thiếu, hủy. Nếu ai giữ được giới thanh-tịnh, sẽ có các thiện-pháp. Nếu không giữ giới thanh-tịnh, các công-đức thiện đều không sinh được. Do đó, nên biết giới là trụ-xứ công-đức an-ổn thứ nhất vậy.


3- CHẾ TÂM


Các vị Tỳ-Khưu, các vị đã an-trụ trong giới-luật, nên phải kiềm-chế năm căn, đừng để nó buông thả vào năm dục.

Ví như người chăn trâu, cầm roi dòm ngó nó, không để cho nó tha hồ xâm-phạm vào lúa mạ người ta. Nếu buông thả năm căn, chẳng phải nó chỉ lan vào năm dục, mà nó, hầu như xông tới không bờ bến nào và không thể chế-phục được!

Cũng như con ngựa dữ, không thể dùng giây cương mà kiềm-chế được và nó sẽ kéo người ta sa xuống hố. Như bị cướp hại, chỉ khổ một đời, nhưng tai-họa của giặc năm căn kéo đến nhiều đời, làm hại rất nặng, không thể không cẩn-thận!

Thế nên, bậc trí-giả kiềm-chế năm căn mà chẳng dựa theo, gìn giữ nó như giặc, không để cho nó buông lung. Giả như, để cho nó buông lung, chẳng bao lâu, sẽ thấy sự tan diệt vì nó. Đối với năm căn ấy, tâm làm chủ chúng.

Do đó, các vị nên khéo chế-phục tâm! Tâm rất đáng sợ, sợ hơn rắn độc, ác-thú, oán-tặc. Và ngay như lửa cháy bừng bừng cũng chưa đủ làm ví-dụ về chúng! Ví như có người tay cầm bát mật, di-động hấp-tấp, chỉ ngó bát mật, không thấy hố sâu. Ví như voi cuồng không có móc câu, con khỉ, con vượn, kiếm được rừng cây, leo, trèo, nhẩy nhót, khó ngăn-cấm, chế-phục được chúng!

Nên gấp bẻ gẫy tâm-niệm ấy, đừng để cho chúng buông lung. Buông lung tâm ấy, làm mất những việc tốt của người.

Chế phục nó vào một chỗ, không việc gì là không xong. Vì vậy, các vị Tỳ-Khưu, nên siêng năng tinh-tiến triết-phục tâm các vị!


4- TIẾT-ĐỘ SỰ ĂN UỐNG


Các vị Tỳ-Khưu, các vị nhận các món ăn uống, nên tưởng như uống thuốc. Đối với các đồ ngon hay dở, các vị đừng sinh tâm tăng giảm. Cốt giúp cho thân khỏi đói, khát là được! Như ong hái hoa, chỉ hút vị của hoa mà không làm tổn-hại đến sắc và hương!

Các vị Tỳ-Khưu cũng vậy, nhận sự cúng-dường của người, cốt khỏi phiền-não, chứ không được cầu nhiều, làm băng-hoại thiện-tâm của người. Ví như bậc trí-giả, biết lượng sức trâu, có thể làm việc được nhiều hay ít, đừng để nó làm quá phần, kiệt sức!


5- RĂN VIỆC NGỦ NGHỈ


Các vị Tỳ-Khưu, ban ngày nên siêng năng tu-tập các thiện-pháp, không để phí thời giờ. Đầu đêm, cuối đêm cũng đừng bỏ phí công-phu. Nửa đêm tụng kinh, để tự quán sát lý sinh-diệt (tiêu-tức). Không bởi nhân-duyên ngủ nghỉ, khiến cho một đời luống qua không ngộ được gì! Nên niệm ngọn lửa vô thường, đốt mọi thế-gian, vì vậy, nên sớm cầu tự-độ, đừng nên ngủ nghỉ.

Các giặc phiền-não, thường rình giết người. Nó tệ hơn oán-gia, sao có thể ngủ nghỉ được mà không tự răn tỉnh? Rắn độc phiền-não nằm ở tâm người. Ví như con rắn độc màu đen, ngủ trong nhà ngươi, ngươi nên lấy cái móc câu “trì giới”, sớm gạt trừ đi. Con rắn ngủ trong nhà đã ra ngoài rồi, mới có thể ngủ yên được. Nếu nó không ra ngoài mà cứ nằm ngủ, đó là người không biết thẹn. Bộ áo thẹn hổ, đối với các đồ trang-nghiêm, nó là bậc nhất. Thẹn hổ như móc câu bằng sắt, hay chế-phục những người làm điều phi-pháp.

Thế nên, các vị Tỳ-Khưu, thường thường phải biết thẹn-hổ, không được thay đổi trong tạm thời. Nếu xa lìa sự thẹn-hổ thời mất các công-đức. Người có tâm biết thẹn-hổ thời có thiện-pháp. Người không có tâm biết thẹn-hổ thời cùng như các loài cầm-thú không khác.


6- RĂN VỀ OÁN-GIẬN


Các vị Tỳ-Khưu, nếu có người lại cắt xẻo từng chi-tiết nơi thân-thể, nên tự-nhiếp-tâm đừng để cho nó phát sinh sân-hận. Và, cũng nên giữ miệng, đừng thốt ra lời nói ác. Nếu buông thả tâm oán giận thời tự mình làm phương-ngại cho sự tiến đạo, mất sự lợi-ích về công-đức. Đức nhẫn-nhục, trì giới, khổ hạnh cũng không thể bì kịp.

Người làm hạnh nhẫn-nhục, mới được gọi là bậc đại-nhân có lực. Nếu ai không có thể vui vẻ nhận chịu được lời độc-hại của sự ác-mạ, như uống thuốc cam-lộ, thời không được gọi là người trí tuệ vào đạo. Sở dĩ thế là sao? Cái hại của sự oán giận là nó phá hoại các thiện-pháp, hư-hoại các tiếng tốt, đời nay, đời sau, người ta không muốn nhìn thấy bằng một cách vui vẻ. Nên biết, tâm oán-giận, nó mạnh hơn lửa dữ, vậy, luôn luôn phải gìn giữ, không để nó xâm-nhập được.

Giặc cướp công-đức, không gì tệ hơn oán giận, Người bạch-y hưởng thụ các dục-lạc, chẳng phải là người hành-đạo, họ không có pháp gì để tự kiềm-chế, họ khởi ra oán-giận, còn có thể tha-thứ được; người xuất gia hành đạo, không có sự ham-muốn, mà còn ôm ấp tâm oán-giận, rất không nên vậy! Ví như trong đám mây trong lạnh, khởi ra tia lửa sấm sét, thời không nên vậy!


7- RĂN VỀ KIÊU-MẠN


Các vị Tỳ-Khưu, nên xoa lên đầu mình, tự thấy, mình đã bỏ thứ trang-sức tốt đẹp, mặc áo hoại-sắc, mang giữ đồ ứng-khí, lấy việc đi xin ăn để sống như thế, mà nếu, còn khởi ra tâm kiêu-mạn, thời nên sớm diệt nó đi. Tăng trưởng tính kiêu-mạn, còn chẳng phải là người bạch-y thế-tục nên làm, huống là người xuất-gia nhập đạo, đã vì sự giải-thoát, tự hạ thân mình xuống, mà làm hạnh khất-thực ư?


8- RĂN VỀ SIỂM-KHÚC


Các vị Tỳ-Khưu, tâm nịnh-hót, cong queo, là trái với đạo, thế nên, cần phải giữ tâm chất trực. Nên biết, nịnh-hót, cong queo, chỉ là dối trá. Người đã vào đạo, thời không có lẽ ấy. Do đó, các vị phải nên giữ tâm ngay-thẳng, lấy “chất-trực” làm gốc.


9- THIỂU-DỤC (ÍT MUỐN)


Các vị Tỳ-Khưu, các vị nên biết: người ham muốn nhiều, vì cầu lợi nhiều, nên khổ-não cũng nhiều. Người ham muốn ít, không cầu không muốn, thời không có tai-hoạn ấy. Thẳng thắn mà nói, không có gì, sự ít ham muốn còn nên tu-tập, huống là sự ít ham muốn còn sinh ra các công-đức? Người ít ham muôn thời không có tâm siểm-khúc để cầu vừa ý người ta, và cũng lại không bị các căn lôi-kéo.

Người làm hạnh “thiểu dục” (ít ham-muốn) thời tâm thản-nhiên, không lo sợ gì, chạm tới sự gì đều có thừa, và thường không có gì là không đầy-đủ. Người có đức-tính ít ham muốn thời có niết-bàn. Thế gọi là “thiểu dục”.


10- TRI-TÚC (BIẾT ĐỦ)


Các vị Tỳ-Khưu, nếu muốn thoát khỏi các khổ-não, nên quán “tri-túc” (biết đủ). Biết pháp tri-túc, tức là chỗ giàu sang, vui vẻ và an-ổn. Người tri-túc, tuy nằm trên đất vẫn cho là vui vẻ. Người không tri-túc, tuy ở thiên-đường cũng chẳng vừa ý.

Người không tri-túc, tuy giàu mà nghèo, người tri-túc tuy nghèo mà giàu. Người không tri-túc thường bị năm dục lôi kéo, bị người tri-túc thương-xót. Thế gọi là “tri-túc”.


11- VIỄN LY


Các vị Tỳ-Khưu, muốn cầu sự an-lạc, vô vi tịch-tĩnh, nên rời khỏi chốn ồn-ào, ở nơi an nhàn một mình. Người ở chốn an-tĩnh, vua Đế-Thích cũng như chư Thiên đều cùng kính-trọng.

Thế nên, nên bỏ đồ-chúng của mình và cả đồ-chúng người khác, ở nơi trống vắng, an-nhàn một mình, suy nghĩ về sự diệt-trừ gốc khổ. Nếu ưa chỗ nhiều người, thì chịu nhiều phiền-não. Ví như cây lớn, mọi loài chim tụ-tập trên đó, thì sẽ có tai-hoạn khô gẫy.

Sự ràng buộc của thế-gian, đắm chìm trong mọi khổ. Ví như con voi già bị lún vào bùn, không thể tự rút ra được. Thế gọi là “viễn ly” (xa lìa).


12- TINH-TIẾN


Các vị Tỳ-Khưu, nếu siêng năng tinh-tiến thì việc gì cũng không nhớ. Thế nên, các vị nên siêng năng tinh-tiến. Ví như giọt nước nhỏ chảy mãi, thời có thể làm thủng đá. Nếu tâm của hành-giả, thường thường lười-biếng bỏ phế, như người dùi cây lấy lửa, cây chưa bốc nóng đã thôi, vì vậy, tuy muốn được lửa, nhưng lửa khó thể bùng lên được. Thế gọi là “tinh-tiến”.


13- BẤT VONG NIỆM


Các vị Tỳ-Khưu, cầu bậc thiện-tri-thức, cầu bậc thiện-hộ-trợ, không bằng cầu được tâm “bất vong niệm” (không quên chính-niệm). Nếu người đã có tâm “bất vong niệm”, thời các giặc phiền-não không thể xâm-nhập được. Thế nên, các vị thường nên nhiếp-niệm tại tâm. Nếu mất chính-niệm thời mất các công đức. Nếu năng-lực của chính-niệm kiên-cường, tuy vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị hãm hại. Ví như mặc áo giáp vào trận thời không sợ gì. Thế gọi là “bất vong niệm”.


14- THIỀN-ĐỊNH


Các vị Tỳ-Khưu, nếu nhiếp tâm được, thời tâm an tại định. Tâm an tại định nên cơ thể biết được pháp-tướng sinh-diệt của thế-gian. Thế nên các vị, thường nên tinh-tiến tu-tập các định. Nếu được định, tâm không tán-loạn. Ví như các nhà trông coi về việc nước, khéo sửa trị đê, đường. Hành-giả cũng vậy, vì nước trí-tuệ, phải khéo tu thiền-định, khiến cho không dò rỉ. Thế gọi là “thiền-định”.


15- TRÍ-TUỆ


Các vị Tỳ-Khưu, nếu có trí-tuệ thì không tham-đắm. Thường tự xem xét, không để cho mình có chỗ sai-lạc. Như thế, ở trong giáo-pháp của Ta sẽ được giải-thoát. Nếu không được như thế, đã không phải là đạo-nhân, cũng khôngphải là bạch-y và, không gọi là tên gì được vậy!

Người có trí-tuệ như-thực, như là có con thuyền bền-chắc vượt qua biển lão, bệnh, tử, cũng là ngọn đèn rất sáng soi chỗ vô minh tăm-tối, là lương-dược chữa trị mọi bệnh, là búa sắc đẵn cây phiền-não.

Thế nên các vị, nên lấy văn, tư, tu-tuệ, tăng thêm sự ích lợi cho mình. Nếu người nào có sự soi sáng bởi trí-tuệ, tuy là nhục-nhãn, nhưng là người “minh-kiến” (thấy rõ) vậy. Thế gọi là “trí-tuệ”.


16- KHÔNG HÝ-LUẬN


Các vị Tỳ-Khưu, mọi thứ hý-luận, nó làm tâm loạn. Còn vướng vào hý-luận, tuy là xuất gia, nhưng chưa được thoát. Thế nên, các vị Tỳ-Khưu, nên gấp lìa bỏ hý-luận loạn tâm. Nếu các vị muốn được sự an vui tịch diệt, chỉ nên khéo diệt cải tai-hoạn hý-luận. Thế gọi là “không hý-luận”.


17- TỰ GẮNG SỨC

Các vị Tỳ-Khưu, đối với các công đức, thường nên nhất tâm, bỏ mọi sự phóng-dật, như là bỏ oán-tặc. Đại-bi Thế-Tôn nói ra những điều lợi-ích, đều đã trọn vẹn, các vị nên siêng-năng thực-hành.

Khi ở trong núi non, khi ở bên đầm trống, khi ở dưới gốc cây, hay khi ở chốn an-nhàn, trong ngôi nhà vắng vẻ, cần niệm những giáo-pháp đã lĩnh-thụ, đừng để cho quên mất. Thường nên tự gắng sức, tinh tiến tu theo những pháp ấy. Không làm gì, chết rỗng không, sau này sẽ đưa lại sự hối tiếc.

Ta như thầy thuốc hay, biết bệnh cho thuốc, uống hay không uống, lỗi không phải nơi thày thuốc. Lại như người khéo chỉ đường, chỉ cho người ta con đường thiện, nghe mà không đi, không phải lỗi ở người chỉ đường vậy.


18- QUYẾT NGHI


Các vị, nếu trong pháp Tứ-Đế như Khổ v.v.. còn có chỗ nào nghi ngờ, các vị nên hỏi mau lên, không được mang lòng ngờ vực, mà không cầu sự giải quyết. Khi ấy đức Thế-Tôn xướng lên ba lần như thế, không có vị nào hỏi nữa. Sở dĩ thế là sao? Vì chúng không còn nghi-ngờ nữa.

Bấy giờ Tôn-giả A-nâu-lâu-đà quán-sát tâm đại-chúng, bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn, mặt trăng có thể nóng, mặt trời có thể lạnh, chư Phật nói pháp Tứ-Đế, không thể có sự sai khác được.

Phật nói Khổ-Đế thực là khổ, không thể vui được; Tập-Đế thực là “nhân”, không có nhân khác; Khổ, nếu diệt trừ, tức là nhân diệt. Nhân diệt nên quả diệt; đạo “diệt khổ”, thực là chân-đạo, không còn đạo nào khác nữa. Bạch Đức Thế-Tôn các vị Tỳ-Khưu, đối với pháp “Tứ-Đế”, quyết định không còn sự ngờ vực gì nữa.


19- CHÚNG-SINH ĐẮC ĐỘ


Trong chúng này, những vị chưa làm xong công việc tu-chứng, thấy Phật diệt-độ, nên có sự bi-cảm. Vì mới nhập-pháp, nghe lời Phật nói, liền đắc độ. Ví như ban đêm thấy ánh chớp, liền được thấy đạo.

Nếu vị nào đã làm xong việc tu-chứng, đã vượt qua biển khổ liền khởi niệm rằng: “Thế-Tôn diệt độ, nhất thời, sao chóng vậy! Tôn-giả A-nâu-lâu-đà nói ra lời trên rồi, trong chúng đều tỏ suốt nghĩa Tứ-Thánh-Đế.

Đức Thế-Tôn muốn cho đại-chúng này được kiên-cố, Ngài đem tâm đại-bi lại vì chúng nói: “Các vị Tỳ-Khưu, đừng mang lòng bi-não, nếu Ta ở đời một kiếp, hội hợp rồi cũng tan-diệt. Hội-hợp mà không tan lìa, hoàn toàn không thể có được. Việc tự-lợi lợi-tha, các pháp đều đã đầy-đủ. Nếu Ta ở đời lâu nữa cũng không ích gì. Nếu những người ở trên cõi trời hay cõi người, nên độ, đều đã độ, những người chưa được độ, đều cũng đã gây nhân-duyên đắc độ”.


20- PHÁP-THÂN THƯỜNG-TẠI


“Từ nay về sau, các đệ-tử của Ta, triển-chuyển thực-hành các giáo-pháp ấy, thời như pháp-thân Như-Lai thường-trụ không tan-diệt. Vì vậy, nên biết: “Đời là vô-thường, họp tất có tan. Đừng mang lòng ưu-não. Thế-tướng như thế. Nên siêng năng tinh-tiến, sớm cầu giải-thoát. Dùng ánh sáng trí-tuệ, diệt các si-ám. Thế-gian thực nguy-ngập, không bền-chắc. Ta nay được diệt-độ, như trừ được ác-bệnh. Thân này là tấm thân nên xả. Thân này là vật tội-ác, mượn danh là thân mà thôi. Ai là người có trí-tuệ, trừ-diệt được nó đi, như giết oán-tặc, mà lại không hoan-hỷ?


21- KẾT-LUẬN


Các vị Tỳ-Khưu, thường nên nhất tâm siêng cầu đạo xuất-thế. Hết thảy pháp động hay bất động ở thế-gian, đều là tướng-trạng bại-hoại bất an. Các vị hãy ngưng, đừng nên hỏi nữa! Thời-gian sắp qua, Ta muốn diệt-độ. Đây là lời giáo-hối tối-hậu của Ta!”

Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần)





NGHI THỨC CÚNG NGỌ


Nam-mô thường trụ thập phương Phật.

Nam-mô thường trụ thập phương Pháp.

Nam-mô thường trụ thập phương Tăng.

Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

Nam-mô Cực-lạc thế-giới A-Di-Ðà Phật.

Nam-mô Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật.

Nam-mô Thập-phương tam-thế nhứt-thiết chư Phật.

Nam-mô Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát.

Nam-mô Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát.

Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-AÂm Bồ-tát.

Nam-mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát.

Nam-mô Ðịa-Tạng Vương Bồ-tát.

Nam-mô Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát.

Nam-mô Già-Lam thánh chúng Bồ-tát.

Nam-mô Lịch-Ðại Tổ-sư Bồ-tát.

Nam-mô Ðạo-tràng Hội-thượng Phật, Bồ-tát.


***

Nam-mô tát phạt đác tha nga đa, phạ lồ chỉ đế, án tam bạc ra, tam bạc ra hồng. (Câu này đọc 3 lần)

Nam-mô tô rô bà da, đác tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô, tô rô, bác ra tô rô, bác ra tô rô, ta bà ha. (đọc 3 lần)

Thử thực sắc hương vị,

Thượng cúng thập phương Phật,

Trung phụng chư Hiền Thánh,

Hạ cập lục đạo phẩm,

Ðẳng thí vô sai biệt,

Tùy nguyện giai bảo mãn.

Linh kim thí giả,

Ðắc vô-thượng Ba-la-mật.

Tam-đức lục-vị,

Cúng Phật cập Tăng,

Pháp-giới hữu-tình,

Phổ đồng cúng-dường.

Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)


BÀI TÁN PHỔ CÚNG-DƯỜNG


Ngã kim phụng hiến cam-lồ vị,

Lượng đẳng Tu-Di vô quá thượng,

Sắc hương mỹ-vị biến hư-không,

Duy nguyện từ bi ai nạp thọ.

Nam-mô Phổ-cúng-dường Bồ-tát.(3 lần)

Tứ sanh, cửu-hữu đồng đăng hoa tạng huyền môn,

Bát nạn, tam-đồ cộng nhập Tỳ-lô tánh hải.

Cúng Phật dĩ nhật

Ðương nguyện chúng-sanh

Sở tác giai biện

Cụ chư Phật Pháp.

***


TÂM KINH MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

Quán Tự Tại Bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thứ giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế Bồ đề Tát bà ha.

đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha". (3)



SÁM PHÁT NGUYỆN

Đệ tử chúng con từ vô thỉ Gây bao tội ác bởi lầm mê Đắm trong sanh tử đã bao lần Nay đến trước Đài Vô Thượng Giác Biển trần khổ lâu đời luân lạc Với sanh linh vô số điêu tàn Sống u hoài trong kiếp lầm than Con lạc lõng không nhìn phương hướng Đàn con dại từ lâu vất vưởng Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng Xin hướng về núp bóng từ quang Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước Bao tội khổ trong đường ác trược Vì tham sân si mạn gây nên Con hôm nay giữ trọn lời nguyền Xin sám hối để lòng thanh thoát Trí Phật quang minh như Nhựt Nguyệt Từ bi vô lượng cứu quần sanh Ôi từ lâu ba chốn ngục hình Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi Theo gót Ngài vượt qua khổ ải Nương thuyền từ vượt khỏi ái hà Nhớ lời Ngài bờ giác ngộ không xa Hành thập thiện cho đời tươi sáng Bỏ việc ác cho đời quang đãng Đem phước lành gieo rắc phàm nhân Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng Con nguyện được sống đời rộng rãi Con niệm Phật để lòng nhớ mãi Hình bóng người cứu khổ chúng sanh Để theo Ngài trên bước đường lành Chúng con khổ nguyền xin cứu khổ Chúng con khổ nguyền xin tự độ Ngoài tham lam sân hận ngập trời Phá si mê trí tuệ tuyệt vời Con nhớ Đức Di Đà lạc quốc Phật A Di Đà thân kim sắc Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm Năm tu uyển chuyển bạch hào Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc Trong hào quang hoá vô số Phật Vô số bồ tát hiện ở trong Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh Con nhất tâm nguyện sống đời lành

Luôn tỉnh thức sáu căn phòng hộ

Bao nghiệp xấu, dần dần hóa độ

Mãnh đất tâm thuệ giác nở hoa.

Niềm an vui, đem khắp mọi nhà

Nguyện phúc lành thăng hoa muôn lối

Nguyện đời đời làm lợi chúng sanh

Dưới Phật đài phát nguyện chí thành

Cầu xin đức Từ-Bi nhiếp thọ.

Nam-mô Ta-bà giáo chủ Bổn-sư Thích-ca Mâu-ni Phật O

Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật (10)

Nam-mô A-Di Đà Phật (10)

Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-tár (3)

Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát (3)

Nam-mô Địa-Tạng-Vương Bồ-tát (3)

Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải Chúng Bồ-tát


Chúng sinh không số lượng, thệ nguyện độ khắp.

Phiền não không cùng tận thệ nguyện đều dứt sạch

Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học.

Phật đạo không gì hơn thệ nguyện được viên-thành

HỒI HƯỚNG

Công đức tụng kinh khó nghĩ lường,

Vô biên thắng phước đều hồi hướng.

Khắp nguyện chúng sinh trong pháp giới;

Đều được vãng sinh về Cực Lạc.

Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,

Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ,

Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,

Kiếp kiếp thường tu Bồ tát đạo.

Nguyện sinh Cực Lạc cảnh phương Tây,

Chín phẩm hoa Sen là cha mẹ,

Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh,

Bồ tát bất thoái là bạn hữu.

PHỤC NGUYỆN

Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo tác đại chứng-minh. [1 xá]

Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Điều-Ngự Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật tác đại chứng-minh. [1 xá]

Nam-mô Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới Đại-Từ Đại-Bi A-Di-Đà Phật tác đại chứng-minh. [1 xá]

Nam-mô Đông Phương Giáo-Chủ Dược-Sư Lưu-Ly-Quang-Vương Phật tác đại chứng-minh [1 xá]

`Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật ,

Kính lễ Thế Tôn, Giáo chủ cõi Ta-Bà. Tu tập nhiều kiếp lâu xa. Rồi từ Đẩu-Suất giáng trần. Giã từ ngôi vị quốc vương. Chuyên tâm ngồi thiền định. Hàng phục ma quân. Một sáng sao Mai vừa mọc. Đạo giác-ngộ viên-thành. Rồi hoằng-pháp độ sanh. Các bậc Hiền Thánh tu theo, quả vị vô-sanh đã chứng. Chúng con quy hướng nhất tâm, nguyện vô-sanh sẽ chứng.

Hiện tiền để tử chúng con Phật tử tại đạo tràng Tịnh Thất Liên Hoa và khắp mọi nơi, thành kính thiết tha, phúng tụng Kinh Di Giáo cập xưng tán hồng danh, ch úng con ngưỡng nguyện Phật nhật tăng huy, pháp-luân thường chuyển, từ-vân biến phú, đạo mạch miên trường, quốc-gia hưng-vượng, Dân chúng an-hoà, thế-giới thanh bình, chúng-sinh an lạc.

Phục nguyện: chư Tôn Giáo Phẩm, Đại Đức Tăng, Ni; gia-đình Phật tử, thập phương Thiện Tín, thân tâm thanh thái, hoặc chướng tiêu trừ, tín niệm tinh thành, tuệ căn tăng trưởng. Hiện sinh lợi lạc, lai thế siêu thăng, gia đạo hưng long, tông môn đỉnh thịnh.

Nguyện cầu chư vị hương-linh ký danh, ký tự, thờ tự tại Liên-Hoa Tịnh-Thất, cập Cửu Huyền Thất Tổ, Nội Ngoại Tông Thân, Thất Thế Phụ-Mẫu,tứ sanh lục-đạo, quá vãng chân-linh, Tướng-sĩ trận vong, cô-hồn hoạnh-tử, phiền-não đoạn diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, siêu sinh Cực-Lạc Quốc.

Phổ nguyện âm siêu dương thới, pháp-giới chúng-sinh tình dữ vô tình đồng thành Phật đạo.

NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT.


Lời Khấn-Nguyện

Kính lạy Mười phương Phật

Kính lạy Mười phương Pháp

Kính lạy Mười phương Tăng O


1.- Xin chứng giám lòng con. Với tất cả tâm-thành. Dâng lên lời khấn-nguyện.

- Xin cho con mãi mãi, Lòng tôn kính vô biên, Hơn núi biển mông mênh, Dâng lên Mười phương Phật (O)

2.- Xin cho con mãi mãi, Lòng thương yêu không cùng, Trải thế-giới tam-thiên, Đến chúng-sinh vô tận.

- Xin cho khắp muôn loài. Sống yên lành bên nhau. Không ganh ghét oán thù, Không chiến-tranh giết chóc. (O)


3.- Xin cho kẻ bất thiện, Biết tin có luân-hồi, Có nghiệp-báo trả vay, Để hồi đầu hướng thiện.

- Xin kẻ mù được sáng, Kẻ điếc lại được nghe, Kẻ nghèo được ấm no, Kẻ ốm đau bình phục (O)


4.- Xin cho loài cầm thú, Thoát được nghiệp ngu si, Tái sinh vào cõi người, Biết tu theo Phật-Pháp.

- Các vong-linh vất-vưởng, Trong cõi giới u-huyền, Thoát nghiệp đói triền miên. Quy-y và siêu thoát (O)


5.- Xin cho nơi địa-ngục, Chúng-sinh đang đọa đày, Khởi được tâm từ-bi, Để xa lìa cảnh khổ (O)


6.- Cúi xin Mười phương Phật, Chư Bồ-Tát Thánh-Hiền, Đem chánh-pháp thiêng-liêng, Sáng soi nghìn thế-giới, Cho chúng con mãi mãi, Dù sinh về nơi đâu, Đều gặp Phật pháp nhiệm-mầu, Để nương theo tu tập (O)


7.- Cho con biết khiêm-hạ, Biết tôn trọng mọi người, Tự thấy mình nhỏ thôi. Việc tu còn kém cỏi.

- Cho tay con rộng mở, Biết san sẻ cúng-dường, Biết giúp đỡ yêu thương, Đến những người khốn khó.

- Xin cho con bình-thản, Trước nghịch cảnh cuộc đời, Dù bị mắng bằng lời, Hay bằng điều mưu hại (O)


8.- Xin tâm con vui sướng, Khi thấy người thành-công, Hoặc gây tạo phước lành, Như chính con làm được.

- Cho con biết im lặng, Không nói lỗi của người. Chỉ lặng lẽ dùng lời, Cầu cho người hết lỗi.

- Xin vòng dây tham-ái, Rời khỏi cuộc đời con. Để cho trái tim con. Biết yêu thương tất cả (O)


9.- Cúi lạy Mười phương Phật, Đau khổ đã nhiều rồi, Vô lượng kiếp luân-hồi, Đắng cay và mỏi mệt. Nay con dâng lời nguyện, Giải-thoát quyết tìm về. Giác-ngộ, quyết lìa mê, Độ sinh, đền ơn Phật (O)


10.- Xin cho con giữ vững, Được chí-nguyện tu hành, Không một chút buông lơi, Không một giờ xao lãng.

- Xin vẹn toàn giới-hạnh, Với thiền-định lắng sâu, Với trí-tuệ nhiệm-mầu. Xóa tan dần chấp ngã.

- Xin cho con tỉnh táo. Không kiêu mạn tự hào. Dù tu tiến đến đâu. Vẫn tự tìm chỗ dở (O)


11.- Nguyện cho con đi mãi, Không đứng lại giữa đường, Đến tuyệt đối vô biên, Tâm đồng tâm Chư Phật.

- Rồi trong muôn vạn nẻo, Của sinh-tử luân-hồi, Con mãi mãi không thôi. Độ sinh không dừng nghỉ (O)


12.- Cúi lạy Mười phương Phật, Xin chứng-giám lòng con, Lời khấn-nguyện sắt son, Dâng lên ngôi Tam-Bảo

Nam-Mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3 lần)





TỰ QUY Y


Tự quy y Phật, đương nguyện chúng-sanh,

thể giải đại đạo, phát vô-thượng tâm [1 lạy]


Tự quy Pháp, đương nguyện chúng-sanh,

thâm nhập kinh tạng, trí-huệ như hải [1 lạy]


Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng-sanh,

thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. [1 lạy]


HỔI HƯỚNG


Nguyện đem công-đức này, Hướng về khắp tất cả. Đệ-tử và chúng sinh, Đều trọn thành Phật đạo.


Hết – The End




37 lượt xem0 bình luận

Bài đăng gần đây

Xem tất cả

Comments


bottom of page